Dược sĩ Mai Thị Thanh Huyền
Đã duyệt nội dung
Dược sĩ Mai Thị Thanh Huyền
Đã duyệt nội dung
Thông tin sản phẩm
1. Thành phần của Victoza 6mg/ml
Liraglutide (chất tương tự peptide-1 giống glucagon người (GLP-1) sản xuất bằng kỹ thuật DNA tái tổ hợp trong tế bào Saccharomyces cerevisiae) 6mg.
Tá dược: Dinatri phosphate dihydrate, propylene glycol, nước pha tiêm.
Tá dược: Dinatri phosphate dihydrate, propylene glycol, nước pha tiêm.
2. Công dụng của Victoza 6mg/ml
Đái tháo đường típ 2 ở người lớn nhằm đạt được sự kiểm soát mức đường huyết khi dùng phối hợp với các thuốc hạ đường huyết dạng uống và/hoặc với insulin nền, khi các thuốc này cùng với chế độ ăn và luyện tập không đủ để kiểm soát mức đường huyết.
3. Liều lượng và cách dùng của Victoza 6mg/ml
Cách dùng:
Đường dùng: Tiêm dưới da.
Victoza không được dùng đường tĩnh mạch hoặc tiêm bắp.
Victoza được dùng 1 lần/ngày vào bất kỳ lúc nào, không phụ thuộc vào bữa ăn, và có thể tiêm dưới da vào bụng, đùi hoặc phần trên cánh tay. Có thể thay đổi vị trí tiêm và thời gian tiêm mà không cần điều chỉnh liều. Tuy nhiên, tốt nhất là tiêm Victoza gần như vào cùng một thời điểm trong ngày, khi chọn được thời điểm thuận tiện nhất trong ngày. biết thêm hướng dẫn sử dụng.
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG
A. Tháo nặp bút tiêm
B. Gỡ miếng giấy khỏi kim mới, sử dụng một lần. Vặn kim thẳng và chặt vào bút tiêm
C. Tháo nắp kim bên ngoài và giữ lại để dùng ở bước sau
D. Tháo nặp kim bên trong và bỏ nó đi
- Luôn sử dụng một kim mới cho mỗi lần tiêm. Điều này để ngăn ngừa sự nhiễm bán, nhiễm khuẩn, rõ rỉ liraglutide, kim bị nghẽn và liều không chính xác
- Cẩn thận không làm công hoặc hư hỏng kim.
- Không bao giờ được đây nắp kim nhỏ bên trong vào lại kim tiêm Bệnh nhân có thể làm gãy kim tiêm
Bảo dưỡng bút tiêm
- Không cố gắng sửa chữa hoặc tháo rời bút tiềm
- Giữ bút tránh bụi chất bẩn và tất cả các loại chất lỏng
- Lau sạch bút tiềm bằng một miếng vải được làm ẩm bằng chất tẩy nhẹ Không có rửa, ngăn nước hoặc bởi trơn vị điều này có thể làm hư hại bút tiêm,
Thông tin quan trọng
- Không dùng chung bút tiêm với bắt kỳ người nào. - Để bút tiêm xa tầm tay những người khác đặc biệt là trẻ em
E. Với mỗi bút tiêm mới, luôn kiểm tra liều thuốc
Luôn kiểm tra liều thuốc trước khi tiêm bằng một bút tiêm mới. Nếu bút tiêm đã sẵn sàng để sử dụng, tiến đến bước H “Chọn liều tiêm"
Xoay nút chọn liều tiêm cho đến khi biểu tượng kiểm tra liều thuốc nằm ngang với vạch chỉ liều tiêm.
F. Cầm bút tiêm với kim hướng lên trên. Dùng ngón tay gõ nhẹ vào ống thuốc vài lần Điều này sẽ làm cho tất cả bọt khí di chuyển lên đỉnh ống thuốc.
G. Giữ kim hướng lên trên và ấn nút bấm tiêm cho đến khi 0 mg nằm thẳng hàng với vạch chi liều tiêm
Một giọt liraglutide sẽ xuất hiện ở đầu mũi kim. Nếu không xuất hiện, lặp lại các bước E đến G tối đa 4 lần.
Nếu không có giọt thuốc này xuất hiện, thay kim và lặp lại các bước E đến G thêm một lần nữa
Không sử dụng bút tiêm nếu vẫn không xuất hiện 1 giọt liraglutide. Điều này chứng tỏ bút tiêm đã bị vỡ và phải sử dụng một bút tiêm mới.
Nếu làm rơi bứt tiêm trên một bề mặt cũng hoặc nghi ngờ bút có điều gì đó hư hỏng, luôn gắn một kim dùng một lần mới và kiểm tra liều thuốc trước khi tiêm
H. Chọn liều tiêm
Luôn kiểm tra vạch chỉ liều tiêm nằm ngang với 0 mg.
Xoay nút chọn liều tiêm cho đến khi liều cần tiêm nằm ngang với vạch chỉ liều tiêm (0,6 mg, 1,2 mg hoặc 1,8 mg).
Nếu chọn một liều sai do sơ suất, chỉ đơn giản thay đổi liều này bằng cách xoay nút chọn liều tiêm tới hay lui cho đến khi liều đúng nằm ngang với vạch chỉ liều tiêm
Khi xoay ngược nút chọn liều tiêm lại cần cẩn thận không ấn vào nút bấm tiêm thuốc vì có thể làm cho liraglutide thoát ra ngoài.
Nếu nút chọn liều tiêm ngừng lại trước khi liều cần tiêm nằm ngang với vạch chỉ liều tiêm, nghĩa là không còn đủ liraglutide cho một liều đầy đủ. Lúc đó có thể thực hiện một trong 2 cách:
Chia liều thành 2 lần tiêm:
Xoay nút chọn liều tiêm theo một trong hai hưởng cho đến khi 0.6 mg hoặc 1,2 mg nam Ingang với vạch chỉ liều tiêm. Tiêm liều này. Chuẩn bị một bút mới để tiêm và tiềm số mg còn lại để hoàn tất liều
Tiêm liều đầy đủ bằng một bút tiêm mới:
Nếu nút chọn liêu tiêm ngừng lại trước khi 0.6 mg nằm thẳng hàng với vạch chi liều tiêm, chuẩn bị một bút tiêm mới và tiêm liều dầy đủ bằng bút tiêm mới này.
- Không cố gắng chọn các liều khác hơn 0,6 mg, 1,2 mg hoặc 1,8 mg. Các số này trong màn hình hiển thị phải nằm ngang một cách chính xác với vạch chỉ liều để bảo đảm là có một liều đúng.
- Khi xoay nút chọn liều tiêm sẽ có tiếng kêu tiếng lách cách. Không được dựa vào những tiếng lách cách này để chọn liều lượng liraglutide để tiêm.
- Không dùng thang bảo lượng thuốc trên ống để đo có bao nhiêu liraglutide để tiêm – điều này không đủ chính xác.
I. Tiêm thuốc
Đâm kim vào da, sử dụng kỹ thuật tiêm do bác sĩ hoặc y tá đã hướng dẫn. Sau đó tuân theo những chỉ dẫn dưới đây.
Ấn nút bấm để tiêm thuốc cho đến khi 0 mg nằm ngang với vạch chỉ liều tiêm Cần thận không để các ngón tay khác chạm vào màn hình hiển thị hoặc đầy nút chọn liều tiêm qua một bên khi tiêm vi điều này có thể làm trở ngại cho việc tiêm. Giữ nút bấm tiêm thuốc được ấn xuống và để kim dưới da ít nhất 6 giây. Điều này để bảo đảm đã tiêm liều đầy đủ.
J. Rút kim ra.
Sau đó có thể thấy một giọt liraglutide ở đầu kim. Điều này là bình thường và không ảnh hưởng gì đến liều vừa tiêm.
K. Đưa kim vào trong nắp kim bên ngoài mà không chạm vào nắp kim bên ngoài.
L. Khi kim đã vào trong, đẩy cẩn thận nắp kim bên ngoài vào hoàn toàn. Sau đó vặn thảo kim ra. Vứt bỏ kim cẩn thận và đậy nắp bút tiêm lại
Khi bút tiêm đã rỗng, vứt bỏ bút không có kim gắn vào. Xin vứt bỏ bút tiềm và kim theo quy định của địa phương.
- Luôn thảo kim sau mỗi lần tiêm và bảo quản bút tiêm không có kim gắn vào
- Điều này ngăn ngừa sự nhiễm bần, nhiễm khuẩn, rõ ri liraglutide, kim bị nghẽn và liều không chính xác
- Những người chăm sóc bệnh nhân phải thật cần thận khi xử lý kim đã sử dụng để tránh bị kim làm tổn thương.
Không được sử dụng Victoza nếu dung dịch không trong suốt và không màu hoặc gần như không màu
Không được sử dụng Victoza nếu sản phẩm đã bị đông lạnh.
Bút tiêm được thiết kế để sử dụng với kim dùng một lần NovoFine hoặc NovoTwist.
Hộp thuốc không bao gồm kim tiêm.
Nên hướng dẫn bệnh nhân hủy bỏ kim tiêm theo đúng quy định của địa phương sau mỗi lần tiêm và bảo quản bút tiêm không có kim gắn vào. Việc này nhằm ngăn ngừa nhiễm bẩn, nhiễm khuẩn và rõ rẻ thuốc, ngoài ra còn bảo đảm liều dùng chính xác
Liều dùng
Để cải thiện khả năng dung nạp dạ dày – ruột, liều khởi đầu là 0,6 mg liraglutide mỗi ngày. Sau ít nhất 1 - tuần, nên tăng liều lên 1,2 mg. Một số bệnh nhân có thể có lợi từ sự tăng liều từ 1,2 mg đến 1,8 mg và dựa trên đáp ứng lâm sàng, sau ít nhất 1 tuần có thể tăng liều lên 1,8 mg để cải thiện thêm sự kiểm soát đường huyết. Không khuyến cáo dùng các liều hàng ngày cao hơn 1,8 mg.
Victoza có thể được bổ sung vào trị liệu bằng metformin đang dùng hoặc trị liệu phối hợp metformin và thiazolidinedione. Liều metformin và thiazolidinedione đang dùng có thể được tiếp tục không thay đổi.
Victoza có thể được bổ sung vào trị liệu bằng sulphonylurea hoặc trị liệu phối hợp metformin và sulphonylurea hoặc một insulin nền. Khi bổ sung Victoza vào trị liệu bằng sulphonylurea hoặc insulin nên cần xem xét giảm liều sulphonylurea hoặc insulin nền để giảm nguy cơ hạ đường huyết.
Không cần tự theo dõi đường huyết để điều chỉnh liều Victoza. Tuy nhiên, khi khởi đầu điều trị bằng Victoza phối hợp với một sulphonylurea hoặc một insulin nền, việc tự theo dõi đường huyết có thể trở nên cần thiết đề điều chỉnh liều sulphonylurea hoặc insulin nền.
Các nhóm bệnh nhân đặc biệt
Người cao tuổi (> 65 tuổi): Không cần điều chỉnh liều dựa trên tuổi tác.
Kinh nghiệm điều trị ở bệnh nhân ≥ 75 tuổi còn hạn chế
Suy thận: không cần điều chỉnh liều đối với bệnh nhân suy thận nhẹ hoặc trung bình (độ thanh thải creatinin lần lượt là 60-90 ml/phút và 30-59 ml/phút). Không có kinh nghiệm điều trị ở những bệnh nhân suy thận nặng (độ thanh thải creatinin dưới 30 ml/phút). Hiện nay Victoza không được khuyên dùng đối với bệnh nhân bị suy thận nặng kể cả bệnh nhân bị bệnh thận giai đoạn cuối.
Suy gan: Kinh nghiệm điều trị ở bệnh nhân suy gan các mức độ hiện nay còn rất hạn chế nên không khuyên dùng ở bệnh nhân bị suy gan nhẹ, trung bình hoặc nặng.
Trẻ em: Sự an toàn và hiệu quả của Victoza ở trẻ em và thiếu niên dưới 18 tuổi chưa được xác định. Không có dữ liệu.
Đường dùng: Tiêm dưới da.
Victoza không được dùng đường tĩnh mạch hoặc tiêm bắp.
Victoza được dùng 1 lần/ngày vào bất kỳ lúc nào, không phụ thuộc vào bữa ăn, và có thể tiêm dưới da vào bụng, đùi hoặc phần trên cánh tay. Có thể thay đổi vị trí tiêm và thời gian tiêm mà không cần điều chỉnh liều. Tuy nhiên, tốt nhất là tiêm Victoza gần như vào cùng một thời điểm trong ngày, khi chọn được thời điểm thuận tiện nhất trong ngày. biết thêm hướng dẫn sử dụng.
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG
A. Tháo nặp bút tiêm
B. Gỡ miếng giấy khỏi kim mới, sử dụng một lần. Vặn kim thẳng và chặt vào bút tiêm
C. Tháo nắp kim bên ngoài và giữ lại để dùng ở bước sau
D. Tháo nặp kim bên trong và bỏ nó đi
- Luôn sử dụng một kim mới cho mỗi lần tiêm. Điều này để ngăn ngừa sự nhiễm bán, nhiễm khuẩn, rõ rỉ liraglutide, kim bị nghẽn và liều không chính xác
- Cẩn thận không làm công hoặc hư hỏng kim.
- Không bao giờ được đây nắp kim nhỏ bên trong vào lại kim tiêm Bệnh nhân có thể làm gãy kim tiêm
Bảo dưỡng bút tiêm
- Không cố gắng sửa chữa hoặc tháo rời bút tiềm
- Giữ bút tránh bụi chất bẩn và tất cả các loại chất lỏng
- Lau sạch bút tiềm bằng một miếng vải được làm ẩm bằng chất tẩy nhẹ Không có rửa, ngăn nước hoặc bởi trơn vị điều này có thể làm hư hại bút tiêm,
Thông tin quan trọng
- Không dùng chung bút tiêm với bắt kỳ người nào. - Để bút tiêm xa tầm tay những người khác đặc biệt là trẻ em
E. Với mỗi bút tiêm mới, luôn kiểm tra liều thuốc
Luôn kiểm tra liều thuốc trước khi tiêm bằng một bút tiêm mới. Nếu bút tiêm đã sẵn sàng để sử dụng, tiến đến bước H “Chọn liều tiêm"
Xoay nút chọn liều tiêm cho đến khi biểu tượng kiểm tra liều thuốc nằm ngang với vạch chỉ liều tiêm.
F. Cầm bút tiêm với kim hướng lên trên. Dùng ngón tay gõ nhẹ vào ống thuốc vài lần Điều này sẽ làm cho tất cả bọt khí di chuyển lên đỉnh ống thuốc.
G. Giữ kim hướng lên trên và ấn nút bấm tiêm cho đến khi 0 mg nằm thẳng hàng với vạch chi liều tiêm
Một giọt liraglutide sẽ xuất hiện ở đầu mũi kim. Nếu không xuất hiện, lặp lại các bước E đến G tối đa 4 lần.
Nếu không có giọt thuốc này xuất hiện, thay kim và lặp lại các bước E đến G thêm một lần nữa
Không sử dụng bút tiêm nếu vẫn không xuất hiện 1 giọt liraglutide. Điều này chứng tỏ bút tiêm đã bị vỡ và phải sử dụng một bút tiêm mới.
Nếu làm rơi bứt tiêm trên một bề mặt cũng hoặc nghi ngờ bút có điều gì đó hư hỏng, luôn gắn một kim dùng một lần mới và kiểm tra liều thuốc trước khi tiêm
H. Chọn liều tiêm
Luôn kiểm tra vạch chỉ liều tiêm nằm ngang với 0 mg.
Xoay nút chọn liều tiêm cho đến khi liều cần tiêm nằm ngang với vạch chỉ liều tiêm (0,6 mg, 1,2 mg hoặc 1,8 mg).
Nếu chọn một liều sai do sơ suất, chỉ đơn giản thay đổi liều này bằng cách xoay nút chọn liều tiêm tới hay lui cho đến khi liều đúng nằm ngang với vạch chỉ liều tiêm
Khi xoay ngược nút chọn liều tiêm lại cần cẩn thận không ấn vào nút bấm tiêm thuốc vì có thể làm cho liraglutide thoát ra ngoài.
Nếu nút chọn liều tiêm ngừng lại trước khi liều cần tiêm nằm ngang với vạch chỉ liều tiêm, nghĩa là không còn đủ liraglutide cho một liều đầy đủ. Lúc đó có thể thực hiện một trong 2 cách:
Chia liều thành 2 lần tiêm:
Xoay nút chọn liều tiêm theo một trong hai hưởng cho đến khi 0.6 mg hoặc 1,2 mg nam Ingang với vạch chỉ liều tiêm. Tiêm liều này. Chuẩn bị một bút mới để tiêm và tiềm số mg còn lại để hoàn tất liều
Tiêm liều đầy đủ bằng một bút tiêm mới:
Nếu nút chọn liêu tiêm ngừng lại trước khi 0.6 mg nằm thẳng hàng với vạch chi liều tiêm, chuẩn bị một bút tiêm mới và tiêm liều dầy đủ bằng bút tiêm mới này.
- Không cố gắng chọn các liều khác hơn 0,6 mg, 1,2 mg hoặc 1,8 mg. Các số này trong màn hình hiển thị phải nằm ngang một cách chính xác với vạch chỉ liều để bảo đảm là có một liều đúng.
- Khi xoay nút chọn liều tiêm sẽ có tiếng kêu tiếng lách cách. Không được dựa vào những tiếng lách cách này để chọn liều lượng liraglutide để tiêm.
- Không dùng thang bảo lượng thuốc trên ống để đo có bao nhiêu liraglutide để tiêm – điều này không đủ chính xác.
I. Tiêm thuốc
Đâm kim vào da, sử dụng kỹ thuật tiêm do bác sĩ hoặc y tá đã hướng dẫn. Sau đó tuân theo những chỉ dẫn dưới đây.
Ấn nút bấm để tiêm thuốc cho đến khi 0 mg nằm ngang với vạch chỉ liều tiêm Cần thận không để các ngón tay khác chạm vào màn hình hiển thị hoặc đầy nút chọn liều tiêm qua một bên khi tiêm vi điều này có thể làm trở ngại cho việc tiêm. Giữ nút bấm tiêm thuốc được ấn xuống và để kim dưới da ít nhất 6 giây. Điều này để bảo đảm đã tiêm liều đầy đủ.
J. Rút kim ra.
Sau đó có thể thấy một giọt liraglutide ở đầu kim. Điều này là bình thường và không ảnh hưởng gì đến liều vừa tiêm.
K. Đưa kim vào trong nắp kim bên ngoài mà không chạm vào nắp kim bên ngoài.
L. Khi kim đã vào trong, đẩy cẩn thận nắp kim bên ngoài vào hoàn toàn. Sau đó vặn thảo kim ra. Vứt bỏ kim cẩn thận và đậy nắp bút tiêm lại
Khi bút tiêm đã rỗng, vứt bỏ bút không có kim gắn vào. Xin vứt bỏ bút tiềm và kim theo quy định của địa phương.
- Luôn thảo kim sau mỗi lần tiêm và bảo quản bút tiêm không có kim gắn vào
- Điều này ngăn ngừa sự nhiễm bần, nhiễm khuẩn, rõ ri liraglutide, kim bị nghẽn và liều không chính xác
- Những người chăm sóc bệnh nhân phải thật cần thận khi xử lý kim đã sử dụng để tránh bị kim làm tổn thương.
Không được sử dụng Victoza nếu dung dịch không trong suốt và không màu hoặc gần như không màu
Không được sử dụng Victoza nếu sản phẩm đã bị đông lạnh.
Bút tiêm được thiết kế để sử dụng với kim dùng một lần NovoFine hoặc NovoTwist.
Hộp thuốc không bao gồm kim tiêm.
Nên hướng dẫn bệnh nhân hủy bỏ kim tiêm theo đúng quy định của địa phương sau mỗi lần tiêm và bảo quản bút tiêm không có kim gắn vào. Việc này nhằm ngăn ngừa nhiễm bẩn, nhiễm khuẩn và rõ rẻ thuốc, ngoài ra còn bảo đảm liều dùng chính xác
Liều dùng
Để cải thiện khả năng dung nạp dạ dày – ruột, liều khởi đầu là 0,6 mg liraglutide mỗi ngày. Sau ít nhất 1 - tuần, nên tăng liều lên 1,2 mg. Một số bệnh nhân có thể có lợi từ sự tăng liều từ 1,2 mg đến 1,8 mg và dựa trên đáp ứng lâm sàng, sau ít nhất 1 tuần có thể tăng liều lên 1,8 mg để cải thiện thêm sự kiểm soát đường huyết. Không khuyến cáo dùng các liều hàng ngày cao hơn 1,8 mg.
Victoza có thể được bổ sung vào trị liệu bằng metformin đang dùng hoặc trị liệu phối hợp metformin và thiazolidinedione. Liều metformin và thiazolidinedione đang dùng có thể được tiếp tục không thay đổi.
Victoza có thể được bổ sung vào trị liệu bằng sulphonylurea hoặc trị liệu phối hợp metformin và sulphonylurea hoặc một insulin nền. Khi bổ sung Victoza vào trị liệu bằng sulphonylurea hoặc insulin nên cần xem xét giảm liều sulphonylurea hoặc insulin nền để giảm nguy cơ hạ đường huyết.
Không cần tự theo dõi đường huyết để điều chỉnh liều Victoza. Tuy nhiên, khi khởi đầu điều trị bằng Victoza phối hợp với một sulphonylurea hoặc một insulin nền, việc tự theo dõi đường huyết có thể trở nên cần thiết đề điều chỉnh liều sulphonylurea hoặc insulin nền.
Các nhóm bệnh nhân đặc biệt
Người cao tuổi (> 65 tuổi): Không cần điều chỉnh liều dựa trên tuổi tác.
Kinh nghiệm điều trị ở bệnh nhân ≥ 75 tuổi còn hạn chế
Suy thận: không cần điều chỉnh liều đối với bệnh nhân suy thận nhẹ hoặc trung bình (độ thanh thải creatinin lần lượt là 60-90 ml/phút và 30-59 ml/phút). Không có kinh nghiệm điều trị ở những bệnh nhân suy thận nặng (độ thanh thải creatinin dưới 30 ml/phút). Hiện nay Victoza không được khuyên dùng đối với bệnh nhân bị suy thận nặng kể cả bệnh nhân bị bệnh thận giai đoạn cuối.
Suy gan: Kinh nghiệm điều trị ở bệnh nhân suy gan các mức độ hiện nay còn rất hạn chế nên không khuyên dùng ở bệnh nhân bị suy gan nhẹ, trung bình hoặc nặng.
Trẻ em: Sự an toàn và hiệu quả của Victoza ở trẻ em và thiếu niên dưới 18 tuổi chưa được xác định. Không có dữ liệu.
4. Chống chỉ định khi dùng Victoza 6mg/ml
Quá mẫn với hoạt chất hoặc bất kỳ thành phần nào của thuốc. Tiền sử bản thân hoặc gia đình bị ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy. H/c tăng sinh đa tuyến nội tiết típ 2 (MEN2).
5. Thận trọng khi dùng Victoza 6mg/ml
Thuốc này chỉ dùng theo đơn của bác sĩ.
Không nên dùng liraglutide ở bệnh nhân bị đái tháo đường típ 1 hoặc để điều trị nhiễm toan ceton do đái tháo đường
Liraglutide không phải là thuốc thay thế cho insulin.
Kinh nghiệm còn hạn chế ở bệnh nhân bị suy tim sung huyết độ III theo phân loại của Hiệp hội Tim New York (NYHA), vì vậy cần thận trọng khi sử dụng liraglutide. Chưa có kinh nghiệm ở bệnh nhân bị suy tim sung huyết độ III-IV theo phân loại của Hiệp hội Tim New York (NYHA) và do vậy liraglutide không được khuyên dùng ở những bệnh nhân này.
Kinh nghiệm còn hạn chế ở bệnh nhân bị viêm ruột và liệt dạ dày do đái tháo đường.
Không khuyên dùng liraglutide ở những bệnh nhân này do sử dụng liraglutide có liên quan với các phản ứng phụ về đường tiêu hóa thoảng qua bao gồm buồn nôn, nôn và tiêu chảy,
Nguy cơ về khối u tế bào tuyến giáp
Khi thử nghiệm trên chuột cống và chuột nhắt ở cả 2 giống đực và cái, liraglutide gây ra khối u tế bào tuyến giáp (u tuyến và/hoặc ung thư biểu mô) phụ thuộc vào thời gian dùng và liều dùng. Ung thư tế bào tuyến giáp ác tính được phát hiện trên chuột cống và chuột nhất. Không rõ liệu Victoza có gây khối u tế bào tuyến giáp, bao gồm ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy ở người hay không vì chưa xác định được sự liên quan về khối u tế bào tuyến giáp gây ra bởi liraglutide trên loại động vật gặm nhấm và trên người
Các trường hợp ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy ở bệnh nhân được điều trị bằng Victoza đã được bảo cáo sau khi đưa sản phẩm ra thị trường, dữ liệu trong các báo cáo này không đủ để thiết lập hay loại trừ mối liên hệ giữa ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy với việc sử dụng Victoza ở người.
Victoza chống chị định cho những bệnh nhân có tiền sử bản thân hoặc gia đình bị ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy hoặc bệnh nhân đang bị hội chứng tăng sinh đa tuyến nội tiết tip 2 (MEN2),
khuyến cáo bệnh nhân về nguy cơ ung thư biểu mô tuyến giáp khi sử dụng Victoza và thông báo cho họ biết về các triệu chứng của khối u tuyến giáp (ví dụ: thấy bướu ở trong cổ, khó nuốt, khản giọng dai dẳng). Định kỳ kiểm tra hàm lượng calcitonin trong huyết thanh hay siêu âm tuyến giáp không có giá trị chắc chắn để phát hiện sớm ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy ở bệnh nhân được điều trị bằng Victoza. Do tính đặc hiệu của phép định tính calcitonin huyết thanh thấp và tỷ lệ mắc bệnh tuyến giáp cao nên không cần thiết thực hiện việc theo dõi này. Tăng đáng kể lượng calcitonin trong huyết thanh có thể là chỉ thị của ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy và bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy thường có hàm lượng calcitonin >50 ng/L. Nếu lượng calcitonin trong huyết thanh được đo và thấy tăng, bệnh nhân cần được đánh giá thêm. Bệnh nhân có bướu giáp phát hiện khi kiểm tra sức khỏe hay siêu âm cổ nên được kiểm tra thêm.
Không dùng chung bút tiêm giữa các bệnh nhân: Bút tiêm Victoza không được dùng chung cho các bệnh nhận, ngay cả khi dùng kim riêng. Việc dùng chung có thể dẫn tới nguy cơ lây nhiễm các bệnh lây qua đường máu
Suy thận: Không thấy Victoza có độc tính thận trực tiếp ở các nghiên cứu trên động vật và các thử nghiệm lâm sàng. Một số báo cáo sau bán hàng về tình trạng suy thận cấp và nặng thêm ở bệnh nhân suy thận mãn, khiến phải lọc máu ở các bệnh nhân điều trị bằng Victoza. Trong số các bệnh nhân được báo cáo này, có một số bệnh nhân không có bệnh thận cơ bản. Phần lớn các trường hợp, bệnh nhân có buồn nôn, nôn, tiêu chảy hoặc mất nước. Một số trường hợp bệnh nhân dùng một hoặc nhiều thuốc ảnh hưởng đến chức năng thận hay tình trạng hydrat hóa. Chức năng thận được hồi phục ở rất nhiều trường hợp khi được điều trị hỗ trợ và ngừng sử dụng các tác nhân có thể gây nên, bao gồm Victoza. Thận trọng khi bắt đầu sử dụng hay tăng liều Victoza ở bệnh nhân suy thận.
Phản ứng quá mẫn
Có bảo cáo sau bán hàng về phản ứng quá mần nghiêm trọng (ví dụ sốc mặn cảm và phù mạch) ở bệnh nhân dùng Victoza. Nếu xảy ra các phản ứng quả mãn, bệnh nhân nên ngừng sử dụng Victoza cũng như các thuốc nghi ngờ khác và nhanh chóng liên lạc để có lời khuyên về y khoa.
Phù mạch cũng được báo cáo khi dùng các chất đồng vận thụ thể GLP-). Thận trọng khi sử dụng ở bệnh nhân có tiền sử phủ mạch khi dùng các chất đồng vận thụ the GLP-1 khác bởi vì không rõ liệu bệnh nhân có bị phù mạch khi dùng Victoza hay không.
Viêm tụy cấp: Việc sử dụng các chất đồng vận thụ thể GLP-1 có liên quan với nguy cơ phát triển viêm tụy cấp.
Đã có vài báo cáo phản ứng phụ về viêm tụy cấp. Cần thông báo cho bệnh nhân về các triệu chứng đặc trưng của viêm tụy cấp. Nên ngừng dùng Victoza khi có nghi ngờ viêm tụy và không nên tiếp tục dùng lại Victoza nếu chẩn đoán xác định viêm tụy cấp. Cần thận trọng ở những bệnh nhân có tiền sử viêm tụy.
Bệnh về tuyến giáp: Các phản ứng phụ về tuyến giáp, bao gồm tăng calcitonin huyết, bướu giáp và khối u tần sinh tuyến giáp đã được báo cáo trong các thử nghiệm lâm sàng, đặc biệt ở những bệnh nhân có bệnh về tuyến giáp từ trước, và do vậy liraglutide nên được sử dụng thận trọng.
Hạ đường huyết: Những bệnh nhân đang dùng liraglutide phối hợp với một sulphonylurea hoặc một insulin nền có thể tăng nguy cơ bị hạ đường huyết (xem Tác dụng ngoại ý). Có thể làm giảm nguy cơ hạ đường huyết bằng cách giảm liều sulphonylurea hoặc insulin nền.
Mất nước. Các dấu hiệu và triệu chứng của mất nước, bao gồm cả suy thận và suy thận cấp đã được báo cáo ở những bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide. Cần báo cho những bệnh nhân điều trị bằng liraglutide biết về nguy cơ bị mất nước tiêm ẩn liên quan đến các tác dụng phụ về tiêu hóa và có biện pháp phòng ngừa để tránh mất dịch.
Không nên dùng liraglutide ở bệnh nhân bị đái tháo đường típ 1 hoặc để điều trị nhiễm toan ceton do đái tháo đường
Liraglutide không phải là thuốc thay thế cho insulin.
Kinh nghiệm còn hạn chế ở bệnh nhân bị suy tim sung huyết độ III theo phân loại của Hiệp hội Tim New York (NYHA), vì vậy cần thận trọng khi sử dụng liraglutide. Chưa có kinh nghiệm ở bệnh nhân bị suy tim sung huyết độ III-IV theo phân loại của Hiệp hội Tim New York (NYHA) và do vậy liraglutide không được khuyên dùng ở những bệnh nhân này.
Kinh nghiệm còn hạn chế ở bệnh nhân bị viêm ruột và liệt dạ dày do đái tháo đường.
Không khuyên dùng liraglutide ở những bệnh nhân này do sử dụng liraglutide có liên quan với các phản ứng phụ về đường tiêu hóa thoảng qua bao gồm buồn nôn, nôn và tiêu chảy,
Nguy cơ về khối u tế bào tuyến giáp
Khi thử nghiệm trên chuột cống và chuột nhắt ở cả 2 giống đực và cái, liraglutide gây ra khối u tế bào tuyến giáp (u tuyến và/hoặc ung thư biểu mô) phụ thuộc vào thời gian dùng và liều dùng. Ung thư tế bào tuyến giáp ác tính được phát hiện trên chuột cống và chuột nhất. Không rõ liệu Victoza có gây khối u tế bào tuyến giáp, bao gồm ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy ở người hay không vì chưa xác định được sự liên quan về khối u tế bào tuyến giáp gây ra bởi liraglutide trên loại động vật gặm nhấm và trên người
Các trường hợp ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy ở bệnh nhân được điều trị bằng Victoza đã được bảo cáo sau khi đưa sản phẩm ra thị trường, dữ liệu trong các báo cáo này không đủ để thiết lập hay loại trừ mối liên hệ giữa ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy với việc sử dụng Victoza ở người.
Victoza chống chị định cho những bệnh nhân có tiền sử bản thân hoặc gia đình bị ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy hoặc bệnh nhân đang bị hội chứng tăng sinh đa tuyến nội tiết tip 2 (MEN2),
khuyến cáo bệnh nhân về nguy cơ ung thư biểu mô tuyến giáp khi sử dụng Victoza và thông báo cho họ biết về các triệu chứng của khối u tuyến giáp (ví dụ: thấy bướu ở trong cổ, khó nuốt, khản giọng dai dẳng). Định kỳ kiểm tra hàm lượng calcitonin trong huyết thanh hay siêu âm tuyến giáp không có giá trị chắc chắn để phát hiện sớm ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy ở bệnh nhân được điều trị bằng Victoza. Do tính đặc hiệu của phép định tính calcitonin huyết thanh thấp và tỷ lệ mắc bệnh tuyến giáp cao nên không cần thiết thực hiện việc theo dõi này. Tăng đáng kể lượng calcitonin trong huyết thanh có thể là chỉ thị của ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy và bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy thường có hàm lượng calcitonin >50 ng/L. Nếu lượng calcitonin trong huyết thanh được đo và thấy tăng, bệnh nhân cần được đánh giá thêm. Bệnh nhân có bướu giáp phát hiện khi kiểm tra sức khỏe hay siêu âm cổ nên được kiểm tra thêm.
Không dùng chung bút tiêm giữa các bệnh nhân: Bút tiêm Victoza không được dùng chung cho các bệnh nhận, ngay cả khi dùng kim riêng. Việc dùng chung có thể dẫn tới nguy cơ lây nhiễm các bệnh lây qua đường máu
Suy thận: Không thấy Victoza có độc tính thận trực tiếp ở các nghiên cứu trên động vật và các thử nghiệm lâm sàng. Một số báo cáo sau bán hàng về tình trạng suy thận cấp và nặng thêm ở bệnh nhân suy thận mãn, khiến phải lọc máu ở các bệnh nhân điều trị bằng Victoza. Trong số các bệnh nhân được báo cáo này, có một số bệnh nhân không có bệnh thận cơ bản. Phần lớn các trường hợp, bệnh nhân có buồn nôn, nôn, tiêu chảy hoặc mất nước. Một số trường hợp bệnh nhân dùng một hoặc nhiều thuốc ảnh hưởng đến chức năng thận hay tình trạng hydrat hóa. Chức năng thận được hồi phục ở rất nhiều trường hợp khi được điều trị hỗ trợ và ngừng sử dụng các tác nhân có thể gây nên, bao gồm Victoza. Thận trọng khi bắt đầu sử dụng hay tăng liều Victoza ở bệnh nhân suy thận.
Phản ứng quá mẫn
Có bảo cáo sau bán hàng về phản ứng quá mần nghiêm trọng (ví dụ sốc mặn cảm và phù mạch) ở bệnh nhân dùng Victoza. Nếu xảy ra các phản ứng quả mãn, bệnh nhân nên ngừng sử dụng Victoza cũng như các thuốc nghi ngờ khác và nhanh chóng liên lạc để có lời khuyên về y khoa.
Phù mạch cũng được báo cáo khi dùng các chất đồng vận thụ thể GLP-). Thận trọng khi sử dụng ở bệnh nhân có tiền sử phủ mạch khi dùng các chất đồng vận thụ the GLP-1 khác bởi vì không rõ liệu bệnh nhân có bị phù mạch khi dùng Victoza hay không.
Viêm tụy cấp: Việc sử dụng các chất đồng vận thụ thể GLP-1 có liên quan với nguy cơ phát triển viêm tụy cấp.
Đã có vài báo cáo phản ứng phụ về viêm tụy cấp. Cần thông báo cho bệnh nhân về các triệu chứng đặc trưng của viêm tụy cấp. Nên ngừng dùng Victoza khi có nghi ngờ viêm tụy và không nên tiếp tục dùng lại Victoza nếu chẩn đoán xác định viêm tụy cấp. Cần thận trọng ở những bệnh nhân có tiền sử viêm tụy.
Bệnh về tuyến giáp: Các phản ứng phụ về tuyến giáp, bao gồm tăng calcitonin huyết, bướu giáp và khối u tần sinh tuyến giáp đã được báo cáo trong các thử nghiệm lâm sàng, đặc biệt ở những bệnh nhân có bệnh về tuyến giáp từ trước, và do vậy liraglutide nên được sử dụng thận trọng.
Hạ đường huyết: Những bệnh nhân đang dùng liraglutide phối hợp với một sulphonylurea hoặc một insulin nền có thể tăng nguy cơ bị hạ đường huyết (xem Tác dụng ngoại ý). Có thể làm giảm nguy cơ hạ đường huyết bằng cách giảm liều sulphonylurea hoặc insulin nền.
Mất nước. Các dấu hiệu và triệu chứng của mất nước, bao gồm cả suy thận và suy thận cấp đã được báo cáo ở những bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide. Cần báo cho những bệnh nhân điều trị bằng liraglutide biết về nguy cơ bị mất nước tiêm ẩn liên quan đến các tác dụng phụ về tiêu hóa và có biện pháp phòng ngừa để tránh mất dịch.
6. Sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai và cho con bú
Xếp hạng cảnh báo
AU TGA pregnancy category: B3
US FDA pregnancy category: C
Thời kỳ mang thai:
Chưa có đủ dữ liệu về việc sử dụng liraglutide ở phụ nữ có thai,
Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy độc tính trên sự sinh sản (xem An toàn tiền lâm sàng).
chưa rõ nguy cơ có thể có đối với người.
Không được dùng liraglutide trong khi mang thai, thay vào đó việc sử dụng insulin được khuyến cáo. Nếu bệnh nhân muốn có thai hoặc phát hiện có thai, phải ngừng điều trị bằng Victoza.
Thời kỳ cho con bú:
Chưa rõ liraglutide có được bài tiết vào sữa mẹ hay không. Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy sự truyền liraglutide và các chất chuyển hóa có quan hệ gần về cấu trúc qua sữa là thấp. Nghiên cứu tiền lâm sàng đã cho thấy có sự giảm tăng trưởng chuột con sơ sinh còn bú mẹ liên quan đến điều trị (xem An toàn tiền lâm sàng). Do còn thiếu kinh nghiệm, không được dùng Victoza trong khi cho con bú.
Khả năng sinh sản:
Ngoài sự giảm nhẹ về số lượng thai làm tổ còn sống, nghiên cứu trên động vật không cho thấy tác hại đối với khả năng sinh sản.
AU TGA pregnancy category: B3
US FDA pregnancy category: C
Thời kỳ mang thai:
Chưa có đủ dữ liệu về việc sử dụng liraglutide ở phụ nữ có thai,
Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy độc tính trên sự sinh sản (xem An toàn tiền lâm sàng).
chưa rõ nguy cơ có thể có đối với người.
Không được dùng liraglutide trong khi mang thai, thay vào đó việc sử dụng insulin được khuyến cáo. Nếu bệnh nhân muốn có thai hoặc phát hiện có thai, phải ngừng điều trị bằng Victoza.
Thời kỳ cho con bú:
Chưa rõ liraglutide có được bài tiết vào sữa mẹ hay không. Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy sự truyền liraglutide và các chất chuyển hóa có quan hệ gần về cấu trúc qua sữa là thấp. Nghiên cứu tiền lâm sàng đã cho thấy có sự giảm tăng trưởng chuột con sơ sinh còn bú mẹ liên quan đến điều trị (xem An toàn tiền lâm sàng). Do còn thiếu kinh nghiệm, không được dùng Victoza trong khi cho con bú.
Khả năng sinh sản:
Ngoài sự giảm nhẹ về số lượng thai làm tổ còn sống, nghiên cứu trên động vật không cho thấy tác hại đối với khả năng sinh sản.
7. Khả năng lái xe và vận hành máy móc
Tác động trên khả năng lái xe và vận hành máy móc: Victoza không có tác động hoặc tác động không đáng kể trên khả năng lái xe và vận hành máy móc. Cần khuyên bệnh nhân thận trọng tránh bị ha đường huyết trong khi lái xe và vận hành máy móc, đặc biệt khi Victoza được dùng phối hợp với một sulphonylurea hoặc một insulin nền.
8. Tác dụng không mong muốn
Tóm tắt thông tin về an toàn: Trong 5 thử nghiệm lâm sàng lớn dài hạn, trên 2500 bệnh nhân đã được điều trị bằng Victoza đơn độc hoặc phối hợp với metformin, sulphonylurea (có hoặc không có metformin) hoặc metformin cộng rosiglitazone.
Những phản ứng ngoại ý được báo cáo thường xuyên nhất trong các thử nghiệm lâm sàng là rối loạn tiêu hóa: buồn nôn và tiêu chảy là rất thường gặp, trong khi nôn, táo bón, đau bụng và khó tiêu là thường gặp. Lúc bắt đầu điều trị, những phản ứng ngoại ý về tiêu hóa này có thể hay xảy ra hơn. Những phản ứng này thường giảm trong vòng vài ngày hoặc vài tuần khi tiếp tục điều trị. Nhức đầu và viêm mũi họng cũng thường gặp. Hơn nữa, hạ đường huyết cũng thường gặp và rất thường gặp trong trường hợp liraglutide được sử dụng kết hợp với một sulphonylurea. Hạ đường huyết nặng chủ yếu được quan sát thấy khi kết hợp với một sulphonylurea.
Bảng danh sách các phản ứng ngoại ý. Bảng 3 liệt kê các phản ứng ngoại ý của Victoza được báo cáo trong các thử nghiệm pha 3 dài hạn có đối chứng và báo cáo tự phát (hậu mãi).
Tần suất về các báo cáo tự phát có liên quan (hậu mãi) đã được tính dựa trên tỷ lệ mắc trong các thử nghiệm lâm sàng pha 3.
- Nhiễm khuẩn và nhiễm kỳ sinh trùng: Viêm mũi họng Viêm phế quản
- Rối loạn hệ thống miễn dịch: Phản ứng phản vệ
- Rối loạn trao đổi chất và dinh dưỡng: Hạ đường huyết, Chán ăn, Giảm sự ngon miệng, mất nước
- Rối loạn hệ thần kinh: Nhức đầu Chóng mặt
- Rối loạn tim: Tăng nhịp tim
- Rối loạn tiêu hóa: Nôn khó tiêu, Đau vùng bụng trên ,Chướng bụng. Bệnh trào ngược dạ dày thực quản khó chịu ở bụng, Táo bón, Viêm dạ dày, Đây hơi, Đau răng, Tác ruột, Viêm tuỵ (bao gồm viêm tuỵ hoại tử)
- Rối loạn da và mô dưới da: Nổi ban, nổi mề day, ngứa
- Rối loạn thận và tiết niệu: Suy thận, suy thận cấp tính
- Rối loạn toàn thân và tình trạng tại chỗ tiêm: mệt mỏi phản ứng chỗ tiêm, khó chịu toàn thân
Mô tả các phản ứng ngoại ý chọn lọc. Trong một thử nghiệm lâm sàng với liraglutide đơn trị liệu, tỷ lệ hạ đường huyết được báo cáo với liraglutide thấp hơn tỷ lệ được báo cáo đối với những bệnh nhân được điều trị với thuốc đối chứng (glimepiride). Các phản ứng ngoại ý được báo cáo thường xuyên nhất là rối loạn tiêu hóa, nhiễm khuẩn và nhiễm ký sinh trùng.
Hạ đường huyết: Hầu hết các cơn hạ đường huyết có chẩn đoán xác định trong các thử nghiệm lâm sàng đều nhẹ. Không quan sát thấy các cơn hạ đường huyết nặng trong nghiên cứu với liraglutide đơn trị liệu. Hạ đường huyết nặng có thể xảy ra không thường xuyên và chủ yếu được quan sát thấy khi liraglutide được phối hợp với một sulphonylurea (0,02 trường hợp/người năm).
Rấtit cơn hạ đường huyết (0,001 trường hợp/ người năm) được quan sát thấy khi dùng liraglutide phối hợp với các thuốc điều trị đái tháo đường khác ngoài sulphonylurea. Nguy cơ hạ đường huyết là thấp khi sử dụng phối hợp giữa insulin nền và liraglutide (1,0 trường hợp người năm, xem Dược lực học).
Phản ứng ngoại ý đường tiêu hóa: khi phối hợp liraglutide và metformin, 20,7% bệnh nhân có ít nhất một cơn buồn nôn và 12,6% bệnh nhân có ít nhất một đợt tiêu chảy. Khi phối hợp liraglutide với một sulphonylurea, 9,1% bệnh nhân có ít nhất một cơn buồn nôn và 7,9% bệnh nhân có ít nhất một đợt tiêu chảy được báo cáo. Hầu hết trường hợp đều từ nhẹ đến trung bình, và xảy ra phụ thuộc vào liều. Khi tiếp tục điều trị, tần suất và mức độ nghiêm trọng giảm ở hầu hết các bệnh nhân ban đầu bị buồn nôn.
Những bệnh nhân > 70 tuổi có thể gặp các tác dụng ngoại ý ở đường tiêu hóa nhiều hơn khi được điều trị bang liraglutide.
Những bệnh nhân bị suy thận nhẹ và trung bình (độ thanh thải creatinine lần lượt là 60-90 ml/phút và 30 59 ml/phút) có thể gặp các tác dụng ngoại ý ở đường tiêu hóa nhiều hơn khi được điều trị bằng liraglutide
Ngừng thuốc: Tỷ lệ ngừng thuốc do các phản ứng ngoại ý là 7,8% đối với bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide và 3,4% đối với bệnh nhân được điều trị bằng thuốc đối chứng trong các thử nghiệm dài hạn có đối chứng (26 tuần hoặc lâu hơn). Các phản ứng ngoại ý thường gặp nhất dẫn đến ngừng thuốc đối với bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide là buồn năm (2,8% bệnh nhân) và nôn (1,5%)
Phản ứng tại vị trí tiêm: Phản ứng tại vị trí tiêm đã được báo cáo trong 2% đối tượng sử dụng Victoza dài hạn (26 tuần hoặc lâu hơn) trong các thử nghiệm có đối chứng. Những phản ứng này thường nhẹ.
Viêm tụy: Đã có báo cáo vài trường hợp viêm tụy cấp (< 0,2%) trong các thử nghiệm dài hạn với Victoza. viêm tụy cũng được báo cáo trong giai đoạn hậu mãi.
Phản ứng dị ứng: Các phản ứng dị ứng bao gồm nổi mề đay, nổi ban và ngứa đã được báo cáo với việc sử dụng Victoza khi thuốc đã lưu hành trên thị trường.
Ít trường hợp phản ứng phản vệ với các triệu chứng kèm theo như hạ huyết áp, đánh trống ngực, khó thở, phù đã được báo cáo với việc sử dụng Victoza khi thuốc lưu hành trên thị trường. ít trường hợp phù mạch (0,05%) đã được báo cáo trong các thử nghiệm dài hạn với Victoza.
Bảo cáo phản ứng ngoại ý nghi ngờ. Báo cáo phản ứng ngoại ý nghi ngờ sau khi sản phẩm thuốc được cấp phép lưu hành là rất quan trọng. Việc này cho phép giám sát liên tục cân bằng lợi ích/ nguy cơ của các sản phẩm thuốc. Các nhân viên y tế được yêu cầu báo cáo bất kỳ trường hợp nghi ngờ phản ứng ngoại ý nào thông qua hệ thống báo cáo quốc gia.
Những phản ứng ngoại ý được báo cáo thường xuyên nhất trong các thử nghiệm lâm sàng là rối loạn tiêu hóa: buồn nôn và tiêu chảy là rất thường gặp, trong khi nôn, táo bón, đau bụng và khó tiêu là thường gặp. Lúc bắt đầu điều trị, những phản ứng ngoại ý về tiêu hóa này có thể hay xảy ra hơn. Những phản ứng này thường giảm trong vòng vài ngày hoặc vài tuần khi tiếp tục điều trị. Nhức đầu và viêm mũi họng cũng thường gặp. Hơn nữa, hạ đường huyết cũng thường gặp và rất thường gặp trong trường hợp liraglutide được sử dụng kết hợp với một sulphonylurea. Hạ đường huyết nặng chủ yếu được quan sát thấy khi kết hợp với một sulphonylurea.
Bảng danh sách các phản ứng ngoại ý. Bảng 3 liệt kê các phản ứng ngoại ý của Victoza được báo cáo trong các thử nghiệm pha 3 dài hạn có đối chứng và báo cáo tự phát (hậu mãi).
Tần suất về các báo cáo tự phát có liên quan (hậu mãi) đã được tính dựa trên tỷ lệ mắc trong các thử nghiệm lâm sàng pha 3.
- Nhiễm khuẩn và nhiễm kỳ sinh trùng: Viêm mũi họng Viêm phế quản
- Rối loạn hệ thống miễn dịch: Phản ứng phản vệ
- Rối loạn trao đổi chất và dinh dưỡng: Hạ đường huyết, Chán ăn, Giảm sự ngon miệng, mất nước
- Rối loạn hệ thần kinh: Nhức đầu Chóng mặt
- Rối loạn tim: Tăng nhịp tim
- Rối loạn tiêu hóa: Nôn khó tiêu, Đau vùng bụng trên ,Chướng bụng. Bệnh trào ngược dạ dày thực quản khó chịu ở bụng, Táo bón, Viêm dạ dày, Đây hơi, Đau răng, Tác ruột, Viêm tuỵ (bao gồm viêm tuỵ hoại tử)
- Rối loạn da và mô dưới da: Nổi ban, nổi mề day, ngứa
- Rối loạn thận và tiết niệu: Suy thận, suy thận cấp tính
- Rối loạn toàn thân và tình trạng tại chỗ tiêm: mệt mỏi phản ứng chỗ tiêm, khó chịu toàn thân
Mô tả các phản ứng ngoại ý chọn lọc. Trong một thử nghiệm lâm sàng với liraglutide đơn trị liệu, tỷ lệ hạ đường huyết được báo cáo với liraglutide thấp hơn tỷ lệ được báo cáo đối với những bệnh nhân được điều trị với thuốc đối chứng (glimepiride). Các phản ứng ngoại ý được báo cáo thường xuyên nhất là rối loạn tiêu hóa, nhiễm khuẩn và nhiễm ký sinh trùng.
Hạ đường huyết: Hầu hết các cơn hạ đường huyết có chẩn đoán xác định trong các thử nghiệm lâm sàng đều nhẹ. Không quan sát thấy các cơn hạ đường huyết nặng trong nghiên cứu với liraglutide đơn trị liệu. Hạ đường huyết nặng có thể xảy ra không thường xuyên và chủ yếu được quan sát thấy khi liraglutide được phối hợp với một sulphonylurea (0,02 trường hợp/người năm).
Rấtit cơn hạ đường huyết (0,001 trường hợp/ người năm) được quan sát thấy khi dùng liraglutide phối hợp với các thuốc điều trị đái tháo đường khác ngoài sulphonylurea. Nguy cơ hạ đường huyết là thấp khi sử dụng phối hợp giữa insulin nền và liraglutide (1,0 trường hợp người năm, xem Dược lực học).
Phản ứng ngoại ý đường tiêu hóa: khi phối hợp liraglutide và metformin, 20,7% bệnh nhân có ít nhất một cơn buồn nôn và 12,6% bệnh nhân có ít nhất một đợt tiêu chảy. Khi phối hợp liraglutide với một sulphonylurea, 9,1% bệnh nhân có ít nhất một cơn buồn nôn và 7,9% bệnh nhân có ít nhất một đợt tiêu chảy được báo cáo. Hầu hết trường hợp đều từ nhẹ đến trung bình, và xảy ra phụ thuộc vào liều. Khi tiếp tục điều trị, tần suất và mức độ nghiêm trọng giảm ở hầu hết các bệnh nhân ban đầu bị buồn nôn.
Những bệnh nhân > 70 tuổi có thể gặp các tác dụng ngoại ý ở đường tiêu hóa nhiều hơn khi được điều trị bang liraglutide.
Những bệnh nhân bị suy thận nhẹ và trung bình (độ thanh thải creatinine lần lượt là 60-90 ml/phút và 30 59 ml/phút) có thể gặp các tác dụng ngoại ý ở đường tiêu hóa nhiều hơn khi được điều trị bằng liraglutide
Ngừng thuốc: Tỷ lệ ngừng thuốc do các phản ứng ngoại ý là 7,8% đối với bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide và 3,4% đối với bệnh nhân được điều trị bằng thuốc đối chứng trong các thử nghiệm dài hạn có đối chứng (26 tuần hoặc lâu hơn). Các phản ứng ngoại ý thường gặp nhất dẫn đến ngừng thuốc đối với bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide là buồn năm (2,8% bệnh nhân) và nôn (1,5%)
Phản ứng tại vị trí tiêm: Phản ứng tại vị trí tiêm đã được báo cáo trong 2% đối tượng sử dụng Victoza dài hạn (26 tuần hoặc lâu hơn) trong các thử nghiệm có đối chứng. Những phản ứng này thường nhẹ.
Viêm tụy: Đã có báo cáo vài trường hợp viêm tụy cấp (< 0,2%) trong các thử nghiệm dài hạn với Victoza. viêm tụy cũng được báo cáo trong giai đoạn hậu mãi.
Phản ứng dị ứng: Các phản ứng dị ứng bao gồm nổi mề đay, nổi ban và ngứa đã được báo cáo với việc sử dụng Victoza khi thuốc đã lưu hành trên thị trường.
Ít trường hợp phản ứng phản vệ với các triệu chứng kèm theo như hạ huyết áp, đánh trống ngực, khó thở, phù đã được báo cáo với việc sử dụng Victoza khi thuốc lưu hành trên thị trường. ít trường hợp phù mạch (0,05%) đã được báo cáo trong các thử nghiệm dài hạn với Victoza.
Bảo cáo phản ứng ngoại ý nghi ngờ. Báo cáo phản ứng ngoại ý nghi ngờ sau khi sản phẩm thuốc được cấp phép lưu hành là rất quan trọng. Việc này cho phép giám sát liên tục cân bằng lợi ích/ nguy cơ của các sản phẩm thuốc. Các nhân viên y tế được yêu cầu báo cáo bất kỳ trường hợp nghi ngờ phản ứng ngoại ý nào thông qua hệ thống báo cáo quốc gia.
9. Tương tác với các thuốc khác
Trong phòng thí nghiệm, liraglutide cho thấy rất ít khả năng có tương tác dược động học với các hoạt chất liên quan đến cytochrome P450 và gắn kết với protein huyết tương.
Hiện tượng chậm làm rỗng dạ dày nhẹ khi dùng liraglutide có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu các thuốc dạng uống dùng đồng thời. Các nghiên cứu về tương tác không cho thấy bất kỳ sự chậm hấp thu nào có ý nghĩa lâm sàng và do vậy không cần điều chỉnh liều. Một vài bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide đã báo cáo có ít nhất một đợt tiêu chảy nặng. Tiêu chảy có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu các thuốc dạng uống dùng đồng thời
Warfarin và các dẫn xuất coumarin khác: Chưa có nghiên cứu nào về tương tác được thực hiện. Không loại trừ được tương tác có ý nghĩa lâm sàng với các hoạt chất có độ tan kém hoặc chỉ số điều trị hẹp như warfarin. Khi khởi đầu điều trị bằng liraglutide ở những bệnh nhân đang dùng warfarin hoặc các dẫn xuất coumarin khác, khuyến cáo theo dõi tỷ số chuẩn hóa quốc tế (INR) thường xuyên hơn.
Paracetamol: Liraglutide không làm thay đổi mức tiếp xúc tổng thể của paracetamol sau khi dùng một liều đơn 1000 mg. Nồng độ cao nhất trong huyết tương (Cmax) của paracetamol giảm 31% và trung vị thời gian đạt được nồng độ cao nhất trong huyết tương (tmax) chậm đến 15 phút. Không cần điều chỉnh liều khi dùng đồng thời với paracetamol.
Atorvastatin: Liraglutide không làm thay đổi mức tiếp xúc tổng thể của atorvastatin có ý nghĩa lâm sàng sau khi dùng một liều đơn atorvastatin 40 mg. Vì vậy không cần điều chỉnh liều atorvastatin khi dùng với liraglutide. Cmax của atorvastatin giảm 38% và tmax trung vị chậm từ 1-3 giờ khi dùng với liraglutide.
Griseofulvin: Liraglutide không làm thay đổi mức tiếp xúc tổng thể của griseofulvin sau khi dùng một liều đơn griseofulvin 500 mg. Cmax của griseofulvin tăng 37% trong khi tmax trung vị không thay đổi không cần điều chỉnh liều griseofulvin và các hợp chất khác có độ tan thấp và độ thẩm thấu cao.
Digoxin: Dùng một liều đơn digoxin 1 mg với liraglutide dẫn đến giảm diện tích dưới đường cong (AUC) của digoxin 16%, Cmax giảm 31%. Trung vị thời gian đạt nồng độ tối đa (tmax) của digoxin chậm lại từ 1 giờ đến 1,5 giờ. Dựa trên những kết quả này, không cần điều chỉnh liều digoxin.
Lisinopril: Dùng một liều đơn lisinopril 20 mg với liraglutide dẫn đến giảm AUC của lisinopril 15%, Cmax giảm 27%, Trung vị thời gian đạt nồng độ tối đa (tmax) của lisinopril chậm lại từ 6 giờ đến 8 giờ khi dùng với liraglutide. Dựa trên những kết quả này, không cần điều chỉnh liều lisinopril.
Các thuốc tránh thai dạng uống: Liraglutide làm giảm Cmax của ethinyloestradiol và levonorgestrel lần lượt là 12% và 13%, sau khi dùng một liều đơn thuốc tránh thai dạng uống. Tmax chậm 1,5 giờ khi dùng liraglutide đối với cả hai hợp chất. Không có ảnh hưởng có ý nghĩa lâm sàng nào đối với mức độ tiếp xúc tổng thể ethinyloestradiol hoặc levonorgestrel. Vì vậy tác dụng tránh thai được dự đoán không bị ảnh hưởng khi dùng kết hợp với liraglutide.
Insulin: không quan sát thấy tương tác được động học hoặc được lực học giữa liraglutide và insulin detemir khi sử dụng một liều đơn insulin detemir 0,5 U/kg với Hiraglutide 1,8 ng ở trạng thái ổn định cho bệnh nhân đái tháo đường type 2
Hiện tượng chậm làm rỗng dạ dày nhẹ khi dùng liraglutide có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu các thuốc dạng uống dùng đồng thời. Các nghiên cứu về tương tác không cho thấy bất kỳ sự chậm hấp thu nào có ý nghĩa lâm sàng và do vậy không cần điều chỉnh liều. Một vài bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide đã báo cáo có ít nhất một đợt tiêu chảy nặng. Tiêu chảy có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu các thuốc dạng uống dùng đồng thời
Warfarin và các dẫn xuất coumarin khác: Chưa có nghiên cứu nào về tương tác được thực hiện. Không loại trừ được tương tác có ý nghĩa lâm sàng với các hoạt chất có độ tan kém hoặc chỉ số điều trị hẹp như warfarin. Khi khởi đầu điều trị bằng liraglutide ở những bệnh nhân đang dùng warfarin hoặc các dẫn xuất coumarin khác, khuyến cáo theo dõi tỷ số chuẩn hóa quốc tế (INR) thường xuyên hơn.
Paracetamol: Liraglutide không làm thay đổi mức tiếp xúc tổng thể của paracetamol sau khi dùng một liều đơn 1000 mg. Nồng độ cao nhất trong huyết tương (Cmax) của paracetamol giảm 31% và trung vị thời gian đạt được nồng độ cao nhất trong huyết tương (tmax) chậm đến 15 phút. Không cần điều chỉnh liều khi dùng đồng thời với paracetamol.
Atorvastatin: Liraglutide không làm thay đổi mức tiếp xúc tổng thể của atorvastatin có ý nghĩa lâm sàng sau khi dùng một liều đơn atorvastatin 40 mg. Vì vậy không cần điều chỉnh liều atorvastatin khi dùng với liraglutide. Cmax của atorvastatin giảm 38% và tmax trung vị chậm từ 1-3 giờ khi dùng với liraglutide.
Griseofulvin: Liraglutide không làm thay đổi mức tiếp xúc tổng thể của griseofulvin sau khi dùng một liều đơn griseofulvin 500 mg. Cmax của griseofulvin tăng 37% trong khi tmax trung vị không thay đổi không cần điều chỉnh liều griseofulvin và các hợp chất khác có độ tan thấp và độ thẩm thấu cao.
Digoxin: Dùng một liều đơn digoxin 1 mg với liraglutide dẫn đến giảm diện tích dưới đường cong (AUC) của digoxin 16%, Cmax giảm 31%. Trung vị thời gian đạt nồng độ tối đa (tmax) của digoxin chậm lại từ 1 giờ đến 1,5 giờ. Dựa trên những kết quả này, không cần điều chỉnh liều digoxin.
Lisinopril: Dùng một liều đơn lisinopril 20 mg với liraglutide dẫn đến giảm AUC của lisinopril 15%, Cmax giảm 27%, Trung vị thời gian đạt nồng độ tối đa (tmax) của lisinopril chậm lại từ 6 giờ đến 8 giờ khi dùng với liraglutide. Dựa trên những kết quả này, không cần điều chỉnh liều lisinopril.
Các thuốc tránh thai dạng uống: Liraglutide làm giảm Cmax của ethinyloestradiol và levonorgestrel lần lượt là 12% và 13%, sau khi dùng một liều đơn thuốc tránh thai dạng uống. Tmax chậm 1,5 giờ khi dùng liraglutide đối với cả hai hợp chất. Không có ảnh hưởng có ý nghĩa lâm sàng nào đối với mức độ tiếp xúc tổng thể ethinyloestradiol hoặc levonorgestrel. Vì vậy tác dụng tránh thai được dự đoán không bị ảnh hưởng khi dùng kết hợp với liraglutide.
Insulin: không quan sát thấy tương tác được động học hoặc được lực học giữa liraglutide và insulin detemir khi sử dụng một liều đơn insulin detemir 0,5 U/kg với Hiraglutide 1,8 ng ở trạng thái ổn định cho bệnh nhân đái tháo đường type 2
10. Dược lý
Tác dụng dược lực học: Liraglutide có thời gian tác dụng 24 giờ và cải thiện sự kiểm soát đường huyết nhờ làm giảm đường huyết lúc đói và đường huyết sau ăn ở những bệnh nhân bị đái tháo đường típ 2.
Hiệu quả và độ an toàn trên lâm sàng: 5 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng đã được tiến hành để đánh giá hiệu quả của liraglutide trên sự kiểm soát đường huyết. Việc điều trị bằng liraglutide đã tạo ra sự cải thiện có ý nghĩa cả về lâm sàng và thống kê về nồng độ haemoglobin A1c (HbA1c) glycosyl hóa, đường huyết lúc đói và đường huyết sau ăn so với giả dược
Những thử nghiệm này bao gồm 3.978 bệnh nhân bị đái tháo đường típ 2 sử dụng thuốc (2.501 người được điều trị với liraglutide), 53,7% nam và 46,3% nữ, 797 người ≥ 65 tuổi (trong đó 508 người được điều trị với liraglutide) và 113 người ≥ 75 tuổi (trong đó 66 người được điều trị với liraglutide).
Những nghiên cứu thực nghiệm khác đã được thực hiện với liraglutide bao gồm 1.910 bệnh nhân trong thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng và không mù (bao gồm 464, 658, 323 và 177 bệnh nhân/ thử nghiệm) và một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi có đối chứng ở bệnh nhân đái tháo đường tip 2 và suy thận mức độ trung bình (279 bệnh nhân).
Kiểm soát đường huyết
Phối hợp với các thuốc điều trị đái tháo đường dạng uống: Trị liệu phối hợp liraglutide với metformin glimepiride hoặc metformin và rosiglitazone trong 26 tuần đã dẫn đến giảm có ý nghĩa thống kế (p < 0,0001) và giảm kéo dài về nồng độ HbA1C so với bệnh nhân dùng giả dược
Liều insulin glargine do bệnh nhân tự điều chỉnh sau khi được nhà nghiên cứu hướng dẫn.
- Đường huyết lúc đói (FPG) tự đo ≤ 5,5 mmol/l (≤ 100 mg/dl) Mục tiêu: Không điều chỉnh
- Đường huyết lúc đói (FPG) tự đo >5,5 và <67 mmol/l (> 100 và < 120 mg/dl): Lượng insulin glargine cần tăng 0 - 2 IU (Theo khuyến cáo của nhà nghiên cứu cho từng cá nhân ở lần thăm khám trước đó, ví dụ tùy theo đối tượng nghiên cứu có bị hạ đường huyết hay không).
- Đường huyết lúc đói (FPG) tự đo ≥ 6,7 mmol/l (≥ 120 mg/dl): Lượng insulin glargine cần tăng 2 IU
Phối hợp với insulin: Trong một thử nghiệm lâm sàng 104 tuần, 57% bệnh nhân đái tháo đường típ 2 được điều trị bằng insulin degludec phối hợp với metformin đã đạt được mục tiêu HbA1C < 7%, số bệnh nhân còn lại tiếp tục tham gia thử nghiệm nhãn mở trong 26 tuần và được phân nhóm ngẫu nhiên bổ sung thêm liraglutide hoặc một liều đơn insulin aspart (trong bữa ăn lớn nhất). Trong nhóm dùng phối hợp insulin degludec + liraglutide, liều insulin được giảm 20% để giảm thiểu nguy cơ hạ đường huyết. Bổ sung thêm liraglutide dẫn đến sự giảm có ý nghĩa thống kê HbA1c (0,73% đối với liraglutide so với 0,4% đối với thuốc đối chứng) và cân nặng (3,03 so với 0,72kg). Tần suất của các cơn hạ đường huyết (trên mỗi bệnh nhân - năm tiếp xúc) giảm có ý nghĩa thống kê khi bổ sung thêm liraglutide so với khi bổ sung một liều đơn insulin aspart (1,0 so với 8,15, tỷ số 0,13; khoảng tin cậy 95%: 0,08 đến 0,21).
Trong một thử nghiệm lâm sàng 52 tuần, bổ trợ thêm insulin detemir cho bệnh nhân không đạt được mục tiêu kiểm soát đường huyết khi chỉ dùng liraglutide và metformin đã dẫn đến giảm HbA1C so với ban đầu là 0.54% so với 0,2% trên nhóm đối chứng dùng liraglutide 1,8 mg và metformin. Hiện tượng giảm cân nặng vẫn được duy trì. Có sự tăng nhẹ tần suất các cơn hạ đường huyết nhẹ (0,23 so với 0,03 trường hợp trên mỗi bệnh nhân - năm)
Sử dụng ở bệnh nhân suy thận: Trong một nghiên cứu mù đôi so sánh tính hiệu quả và an toàn của liraglutide 1,8 mg với giả dược khi dùng bổ sung vào liệu trình insulin và/hoặc các thuốc điều trị đái tháo đường dạng uống ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 và suy thận trung bình, liraglutide ưu thế hơn giả dượ trong việc điều trị làm giảm HbA1c sau 26 tuần (1,05% so với 0,38%). Số bệnh nhân đạt được HbA1c dướ 7% với liraglutide nhiều hơn có ý nghĩa so với giả dược (52,8% so với 19,5%). Trong cả hai nhóm đều ghi nhận có giảm cân nặng: -2,4kg với liraglutide so với -1,09 với giả dược. Nguy cơ các cơn hạ đường huyết giữa 2 nhóm điều trị là tương đương nhau. Tính an toàn của liraglutide nhìn chung là tương tự với các quan sát ở những nghiên cứu khác với liraglutide.
Tỷ lệ bệnh nhân đạt được mức giảm HbA1c: Liraglutide phối hợp với metformin, glimepiride hoặc metformin và rosiglitazone đã dẫn đến tỷ lệ bệnh nhân đạt được HbA1c ≤ 6,5% nhiều hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,0001) vào lúc 26 tuần so với những bệnh nhân chỉ dùng những thuốc kể trên
Đường huyết lúc đói: Điều trị bằng liraglutide đơn độc hoặc phối hợp với một hay hai thuốc điều trị đái tháo đường dạng uống đã dẫn đến giảm đường huyết lúc đói là 13-43,5 mg/dl (0,72-2,42 mmol/l). Sự giảm này được quan sát thấy trong vòng 2 tuần đầu điều trị.
Đường huyết sau ăn: Liraglutide làm giảm đường huyết sau ăn trên tất cả bữa ăn là 31-49 mg/dl (1,68-2,71 mmol/l).
Chức năng tế bào beta: Các thử nghiệm lâm sàng với liraglutide cho thấy chức năng tế bào beta được cải thiện dựa trên các biện pháp như mô hình đánh giá chức năng tế bào beta dựa vào sự hãng định nội môi (HOMA-B) và tỷ số tiền insulin trên insulin. Sự tiết insulin pha đầu và pha thứ 2 được cải thiện sau 52 tuần điều trị bằng liraglutide đã được thể hiện trong một nhóm phụ bệnh nhân bị bệnh đái tháo đường típ 2 (N=29).
Cân nặng Liraglutide phối hợp với metformin, metformin và glimepiride hoặc metformin và rosiglitazone có liên quan với sự giảm cân kéo dài trong thời gian nghiên cứu trong phạm vi từ 1,0kg đến 2,8kg, và ghi nhận được chỉ số khối cơ thể (BMI) ban đầu càng cao thì mức độ giảm cân càng nhiều.
Đánh giá trên tim mạch
Huyết áp: Trong thời gian nghiên cứu, liraglutide làm giảm huyết áp tâm thu trung bình từ 2,3-6,7mmHg so với ban đầu, và sự giảm này là 1,9-4,5mmHg khi so với thuốc đối chứng.
Phân tích post-học các biến cố ngoại ý nghiêm trọng về tim mạch (tử vong do tim mạch, nhồi máu cơ tim, đột quy) từ tất cả các thử nghiệm pha 2 và pha 3 dài hạn và trung hạn (từ 26 đến 100 tuần) bao gồm 5.607 bệnh nhân (3.651 bệnh nhân được dùng liraglutide), đã cho thấy không có sự tăng nguy cơ tim mạch (tỷ số nguy cơ là 0,75 (khoảng tin cậy 95% 0,35; 1,63) theo tiêu chí đánh giá phối hợp cho liraglutide so với tất cả các thuốc đối chứng (metformin, glimepiride, rosiglitazone, insulin glargine, giả dược)). Bệnh nhân có nguy cơ tim mạch cao đã được loại ra khỏi các thử nghiệm này và tỷ lệ mắc các biến cố ngoại ý nghiêm trọng về tim mạch là thấp (602/1.000 bệnh nhân nằm ở những bệnh nhân điều trị với liraglutide và 10,45 ở những bệnh nhân điều trị với tất cả các thuốc đối chứng), không đủ để kết luận chắc chắn.
Tính sinh miền dịch: Bệnh nhân có thể phát triển kháng thể kháng liraglutide sau khi điều trị bằng liraglutide, phù hợp với các đặc tính sinh miễn dịch của các thuốc chứa protein hoặc peptide. Trung bình 8,6% bệnh nhân phát triển kháng thể. Sự tạo thành kháng thể không liên quan với giảm hiệu quả của liraglutide.
Trẻ em: Cơ Quan Quản Lý Thuốc Châu Âu (EMA) đã hoãn nghĩa vụ cung cấp kết quả nghiên cứu với Victoza ở một hoặc nhiều tiểu nhóm trẻ em trong bệnh đái tháo đường típ 2 (xem Liều lượng và Cách dùng để biết thông tin về việc sử dụng ở trẻ em).
Các dữ liệu lâm sàng khác: Trong một nghiên cứu nhãn mở so sánh hiệu quả và độ an toàn của liraglutide (1,2 mg và 1,8 mg) và sitagliptin (chất ức chế DPP-4, 100 mg) ở những bệnh nhân không đạt độ kiểm soát đường huyết khi điều trị bằng metformin (HbA1c trung bình 8,5%), liraglutide ở cả hai liều dùng trội hơn so với điều trị bằng sitagliptin trong việc làm giảm HbA1c sau 26 tuần (1,24%, 1,50% so với 0,90%, p<0,0001).
Những bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide đã giảm cân nặng đáng kể so với ở những bệnh nhân được điều trị bằng sitagliptin (-2,9kg và -3,4kg so với -1,0kg, p<0,0001).
Tỷ lệ bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide bị buồn nôn thoáng qua cao hơn so với những người được điều trị bằng sitagliptin (20,8% và 27,1% so với 4,6%).
Sự giảm HbA1c và sự trội hơn so với sitagliptin quan sát thấy sau 26 tuần điều trị bằng liraglutide (1,2 mg và 1,8 mg) vẫn được duy trì sau 52 tuần điều trị (1,29% và -1,51% so với 0,88%, p<0,0001).
Việc chuyến bệnh nhân tử sitagliptin sang liraglutide sau 52 tuần điều trị đã dẫn đến giảm thêm có ý nghĩa thống kệ về HbA1C (-0,24% và 0,45%, khoảng tin cậy 95% -0,41 đến 0,07 và 0.67 đến 0,23) ở tuần 78 nhưng không có một nhóm đối chứng chính thức.
Trong một nghiên cứu nhãn mở so sánh hiệu quả và độ an toàn của liraglutide 1,8 mg 1 lần/ngày và exenatide 10 mg, 2 lần/ngày ở những bệnh nhân không đạt độ kiểm soát đường huyết khi điều trị bằng metformin và/hoặc sulphonylurea (HbA1c trung bình 8,3%), liraglutide trội hơn exenatide có ý nghĩa thống kê trong việc làm giảm HbA1c sau 26 tuần (-1,12% so với -0,79%, khác biệt trị liệu ước tính: -0,33; khoảng tin cậy 95%. 0,47 đến 0,18). Số bệnh nhân đạt được HbA1c dưới 7% với liraglutide nhiều hơn có ý nghĩa so với exenatide (54,2% so với 43,4%, p=0,0015). Cả hai loại thuốc điều trị dẫn đến giảm cân nặng trung bình khoảng 3kg.
Việc chuyển bệnh nhân từ exenatide sang liraglutide sau 26 tuần điều trị dẫn đến giảm thêm về HbA1c có ý nghĩa thống kê (0,32%, khoảng tin cậy 95%. -0.41 đến 0,24) ở tuần 40, nhưng không có một nhóm đối chứng chính thức. Trong thời gian 26 tuần, đã có 12 biến cố ngoại ý nghiêm trọng ở 235 bệnh nhân (5,1%) sử dụng liraglutide, trong khi có 6 biến cố ngoại ý nghiêm trọng ở 232 bệnh nhân (2,6%) sử dụng exenatide. Không có quy luật cố định về hệ cơ quan xảy ra các biến cố
Cơ chế tác dụng:
Liraglutide là một chất tương tự GLP-1 với trình tự chuỗi tương đồng 97% với GLP-1 người, gắn kết và hoạt hóa thụ thể GLP-1. Thụ thề GLP-1 là đích đối với GLP-1 tự nhiên, là một hormone incretin nội sinh có khả năng làm tiết insulin phụ thuộc glucose từ tế bào beta tuyến tụy. Không giống như GLP-1 tự nhiên, liraglutide có dữ liệu dược động học và được lực học ở người phù hợp để dùng 1 lần/ngày. Sau khi tiêm dưới da, đặc tính tác dụng kéo dài của thuốc dựa trên 3 cơ chế tự kết hợp, dẫn đến sự hấp thu chậm, gắn kết với albumin, và tính ổn định với enzyme cao hơn đối với các enzyme dipeptidyl peptidase IV (DPP-IV) và endopeptidase trung tính (NEP), dẫn đến thời gian bán hủy trong huyết tương kéo dài.
Hoạt động của liraglutide thông qua một sự tương tác đặc hiệu với các thụ thể GLP-1, dẫn đến tăng adenosine monophosphate vòng (CAMP). Liraglutide kích thích sự tiết insulin theo cách phụ thuộc glucose. Đồng thời, liraglutide làm giảm sự tiết glucagon cao không thích hợp, cũng theo cách phụ thuộc glucose. Vì vậy, khi đường huyết cao, sự tiết insulin được kích thích và sự tiết glucagon bị ức chế. Ngược lại, khi đường huyết thấp, liraglutide làm giảm sự tiết insulin và không làm suy giảm sự tiết glucagon.
Tham gia vào cơ chế làm giảm đường huyết còn có sự chậm làm rỗng dạ dày nhẹ. Liraglutide làm giảm cân nặng và khối lượng chất béo trong cơ thể qua cơ chế bao gồm làm giảm cảm giác đói và giảm năng lượng nạp vào.
Hiệu quả và độ an toàn trên lâm sàng: 5 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng đã được tiến hành để đánh giá hiệu quả của liraglutide trên sự kiểm soát đường huyết. Việc điều trị bằng liraglutide đã tạo ra sự cải thiện có ý nghĩa cả về lâm sàng và thống kê về nồng độ haemoglobin A1c (HbA1c) glycosyl hóa, đường huyết lúc đói và đường huyết sau ăn so với giả dược
Những thử nghiệm này bao gồm 3.978 bệnh nhân bị đái tháo đường típ 2 sử dụng thuốc (2.501 người được điều trị với liraglutide), 53,7% nam và 46,3% nữ, 797 người ≥ 65 tuổi (trong đó 508 người được điều trị với liraglutide) và 113 người ≥ 75 tuổi (trong đó 66 người được điều trị với liraglutide).
Những nghiên cứu thực nghiệm khác đã được thực hiện với liraglutide bao gồm 1.910 bệnh nhân trong thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng và không mù (bao gồm 464, 658, 323 và 177 bệnh nhân/ thử nghiệm) và một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi có đối chứng ở bệnh nhân đái tháo đường tip 2 và suy thận mức độ trung bình (279 bệnh nhân).
Kiểm soát đường huyết
Phối hợp với các thuốc điều trị đái tháo đường dạng uống: Trị liệu phối hợp liraglutide với metformin glimepiride hoặc metformin và rosiglitazone trong 26 tuần đã dẫn đến giảm có ý nghĩa thống kế (p < 0,0001) và giảm kéo dài về nồng độ HbA1C so với bệnh nhân dùng giả dược
Liều insulin glargine do bệnh nhân tự điều chỉnh sau khi được nhà nghiên cứu hướng dẫn.
- Đường huyết lúc đói (FPG) tự đo ≤ 5,5 mmol/l (≤ 100 mg/dl) Mục tiêu: Không điều chỉnh
- Đường huyết lúc đói (FPG) tự đo >5,5 và <67 mmol/l (> 100 và < 120 mg/dl): Lượng insulin glargine cần tăng 0 - 2 IU (Theo khuyến cáo của nhà nghiên cứu cho từng cá nhân ở lần thăm khám trước đó, ví dụ tùy theo đối tượng nghiên cứu có bị hạ đường huyết hay không).
- Đường huyết lúc đói (FPG) tự đo ≥ 6,7 mmol/l (≥ 120 mg/dl): Lượng insulin glargine cần tăng 2 IU
Phối hợp với insulin: Trong một thử nghiệm lâm sàng 104 tuần, 57% bệnh nhân đái tháo đường típ 2 được điều trị bằng insulin degludec phối hợp với metformin đã đạt được mục tiêu HbA1C < 7%, số bệnh nhân còn lại tiếp tục tham gia thử nghiệm nhãn mở trong 26 tuần và được phân nhóm ngẫu nhiên bổ sung thêm liraglutide hoặc một liều đơn insulin aspart (trong bữa ăn lớn nhất). Trong nhóm dùng phối hợp insulin degludec + liraglutide, liều insulin được giảm 20% để giảm thiểu nguy cơ hạ đường huyết. Bổ sung thêm liraglutide dẫn đến sự giảm có ý nghĩa thống kê HbA1c (0,73% đối với liraglutide so với 0,4% đối với thuốc đối chứng) và cân nặng (3,03 so với 0,72kg). Tần suất của các cơn hạ đường huyết (trên mỗi bệnh nhân - năm tiếp xúc) giảm có ý nghĩa thống kê khi bổ sung thêm liraglutide so với khi bổ sung một liều đơn insulin aspart (1,0 so với 8,15, tỷ số 0,13; khoảng tin cậy 95%: 0,08 đến 0,21).
Trong một thử nghiệm lâm sàng 52 tuần, bổ trợ thêm insulin detemir cho bệnh nhân không đạt được mục tiêu kiểm soát đường huyết khi chỉ dùng liraglutide và metformin đã dẫn đến giảm HbA1C so với ban đầu là 0.54% so với 0,2% trên nhóm đối chứng dùng liraglutide 1,8 mg và metformin. Hiện tượng giảm cân nặng vẫn được duy trì. Có sự tăng nhẹ tần suất các cơn hạ đường huyết nhẹ (0,23 so với 0,03 trường hợp trên mỗi bệnh nhân - năm)
Sử dụng ở bệnh nhân suy thận: Trong một nghiên cứu mù đôi so sánh tính hiệu quả và an toàn của liraglutide 1,8 mg với giả dược khi dùng bổ sung vào liệu trình insulin và/hoặc các thuốc điều trị đái tháo đường dạng uống ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 và suy thận trung bình, liraglutide ưu thế hơn giả dượ trong việc điều trị làm giảm HbA1c sau 26 tuần (1,05% so với 0,38%). Số bệnh nhân đạt được HbA1c dướ 7% với liraglutide nhiều hơn có ý nghĩa so với giả dược (52,8% so với 19,5%). Trong cả hai nhóm đều ghi nhận có giảm cân nặng: -2,4kg với liraglutide so với -1,09 với giả dược. Nguy cơ các cơn hạ đường huyết giữa 2 nhóm điều trị là tương đương nhau. Tính an toàn của liraglutide nhìn chung là tương tự với các quan sát ở những nghiên cứu khác với liraglutide.
Tỷ lệ bệnh nhân đạt được mức giảm HbA1c: Liraglutide phối hợp với metformin, glimepiride hoặc metformin và rosiglitazone đã dẫn đến tỷ lệ bệnh nhân đạt được HbA1c ≤ 6,5% nhiều hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,0001) vào lúc 26 tuần so với những bệnh nhân chỉ dùng những thuốc kể trên
Đường huyết lúc đói: Điều trị bằng liraglutide đơn độc hoặc phối hợp với một hay hai thuốc điều trị đái tháo đường dạng uống đã dẫn đến giảm đường huyết lúc đói là 13-43,5 mg/dl (0,72-2,42 mmol/l). Sự giảm này được quan sát thấy trong vòng 2 tuần đầu điều trị.
Đường huyết sau ăn: Liraglutide làm giảm đường huyết sau ăn trên tất cả bữa ăn là 31-49 mg/dl (1,68-2,71 mmol/l).
Chức năng tế bào beta: Các thử nghiệm lâm sàng với liraglutide cho thấy chức năng tế bào beta được cải thiện dựa trên các biện pháp như mô hình đánh giá chức năng tế bào beta dựa vào sự hãng định nội môi (HOMA-B) và tỷ số tiền insulin trên insulin. Sự tiết insulin pha đầu và pha thứ 2 được cải thiện sau 52 tuần điều trị bằng liraglutide đã được thể hiện trong một nhóm phụ bệnh nhân bị bệnh đái tháo đường típ 2 (N=29).
Cân nặng Liraglutide phối hợp với metformin, metformin và glimepiride hoặc metformin và rosiglitazone có liên quan với sự giảm cân kéo dài trong thời gian nghiên cứu trong phạm vi từ 1,0kg đến 2,8kg, và ghi nhận được chỉ số khối cơ thể (BMI) ban đầu càng cao thì mức độ giảm cân càng nhiều.
Đánh giá trên tim mạch
Huyết áp: Trong thời gian nghiên cứu, liraglutide làm giảm huyết áp tâm thu trung bình từ 2,3-6,7mmHg so với ban đầu, và sự giảm này là 1,9-4,5mmHg khi so với thuốc đối chứng.
Phân tích post-học các biến cố ngoại ý nghiêm trọng về tim mạch (tử vong do tim mạch, nhồi máu cơ tim, đột quy) từ tất cả các thử nghiệm pha 2 và pha 3 dài hạn và trung hạn (từ 26 đến 100 tuần) bao gồm 5.607 bệnh nhân (3.651 bệnh nhân được dùng liraglutide), đã cho thấy không có sự tăng nguy cơ tim mạch (tỷ số nguy cơ là 0,75 (khoảng tin cậy 95% 0,35; 1,63) theo tiêu chí đánh giá phối hợp cho liraglutide so với tất cả các thuốc đối chứng (metformin, glimepiride, rosiglitazone, insulin glargine, giả dược)). Bệnh nhân có nguy cơ tim mạch cao đã được loại ra khỏi các thử nghiệm này và tỷ lệ mắc các biến cố ngoại ý nghiêm trọng về tim mạch là thấp (602/1.000 bệnh nhân nằm ở những bệnh nhân điều trị với liraglutide và 10,45 ở những bệnh nhân điều trị với tất cả các thuốc đối chứng), không đủ để kết luận chắc chắn.
Tính sinh miền dịch: Bệnh nhân có thể phát triển kháng thể kháng liraglutide sau khi điều trị bằng liraglutide, phù hợp với các đặc tính sinh miễn dịch của các thuốc chứa protein hoặc peptide. Trung bình 8,6% bệnh nhân phát triển kháng thể. Sự tạo thành kháng thể không liên quan với giảm hiệu quả của liraglutide.
Trẻ em: Cơ Quan Quản Lý Thuốc Châu Âu (EMA) đã hoãn nghĩa vụ cung cấp kết quả nghiên cứu với Victoza ở một hoặc nhiều tiểu nhóm trẻ em trong bệnh đái tháo đường típ 2 (xem Liều lượng và Cách dùng để biết thông tin về việc sử dụng ở trẻ em).
Các dữ liệu lâm sàng khác: Trong một nghiên cứu nhãn mở so sánh hiệu quả và độ an toàn của liraglutide (1,2 mg và 1,8 mg) và sitagliptin (chất ức chế DPP-4, 100 mg) ở những bệnh nhân không đạt độ kiểm soát đường huyết khi điều trị bằng metformin (HbA1c trung bình 8,5%), liraglutide ở cả hai liều dùng trội hơn so với điều trị bằng sitagliptin trong việc làm giảm HbA1c sau 26 tuần (1,24%, 1,50% so với 0,90%, p<0,0001).
Những bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide đã giảm cân nặng đáng kể so với ở những bệnh nhân được điều trị bằng sitagliptin (-2,9kg và -3,4kg so với -1,0kg, p<0,0001).
Tỷ lệ bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide bị buồn nôn thoáng qua cao hơn so với những người được điều trị bằng sitagliptin (20,8% và 27,1% so với 4,6%).
Sự giảm HbA1c và sự trội hơn so với sitagliptin quan sát thấy sau 26 tuần điều trị bằng liraglutide (1,2 mg và 1,8 mg) vẫn được duy trì sau 52 tuần điều trị (1,29% và -1,51% so với 0,88%, p<0,0001).
Việc chuyến bệnh nhân tử sitagliptin sang liraglutide sau 52 tuần điều trị đã dẫn đến giảm thêm có ý nghĩa thống kệ về HbA1C (-0,24% và 0,45%, khoảng tin cậy 95% -0,41 đến 0,07 và 0.67 đến 0,23) ở tuần 78 nhưng không có một nhóm đối chứng chính thức.
Trong một nghiên cứu nhãn mở so sánh hiệu quả và độ an toàn của liraglutide 1,8 mg 1 lần/ngày và exenatide 10 mg, 2 lần/ngày ở những bệnh nhân không đạt độ kiểm soát đường huyết khi điều trị bằng metformin và/hoặc sulphonylurea (HbA1c trung bình 8,3%), liraglutide trội hơn exenatide có ý nghĩa thống kê trong việc làm giảm HbA1c sau 26 tuần (-1,12% so với -0,79%, khác biệt trị liệu ước tính: -0,33; khoảng tin cậy 95%. 0,47 đến 0,18). Số bệnh nhân đạt được HbA1c dưới 7% với liraglutide nhiều hơn có ý nghĩa so với exenatide (54,2% so với 43,4%, p=0,0015). Cả hai loại thuốc điều trị dẫn đến giảm cân nặng trung bình khoảng 3kg.
Việc chuyển bệnh nhân từ exenatide sang liraglutide sau 26 tuần điều trị dẫn đến giảm thêm về HbA1c có ý nghĩa thống kê (0,32%, khoảng tin cậy 95%. -0.41 đến 0,24) ở tuần 40, nhưng không có một nhóm đối chứng chính thức. Trong thời gian 26 tuần, đã có 12 biến cố ngoại ý nghiêm trọng ở 235 bệnh nhân (5,1%) sử dụng liraglutide, trong khi có 6 biến cố ngoại ý nghiêm trọng ở 232 bệnh nhân (2,6%) sử dụng exenatide. Không có quy luật cố định về hệ cơ quan xảy ra các biến cố
Cơ chế tác dụng:
Liraglutide là một chất tương tự GLP-1 với trình tự chuỗi tương đồng 97% với GLP-1 người, gắn kết và hoạt hóa thụ thể GLP-1. Thụ thề GLP-1 là đích đối với GLP-1 tự nhiên, là một hormone incretin nội sinh có khả năng làm tiết insulin phụ thuộc glucose từ tế bào beta tuyến tụy. Không giống như GLP-1 tự nhiên, liraglutide có dữ liệu dược động học và được lực học ở người phù hợp để dùng 1 lần/ngày. Sau khi tiêm dưới da, đặc tính tác dụng kéo dài của thuốc dựa trên 3 cơ chế tự kết hợp, dẫn đến sự hấp thu chậm, gắn kết với albumin, và tính ổn định với enzyme cao hơn đối với các enzyme dipeptidyl peptidase IV (DPP-IV) và endopeptidase trung tính (NEP), dẫn đến thời gian bán hủy trong huyết tương kéo dài.
Hoạt động của liraglutide thông qua một sự tương tác đặc hiệu với các thụ thể GLP-1, dẫn đến tăng adenosine monophosphate vòng (CAMP). Liraglutide kích thích sự tiết insulin theo cách phụ thuộc glucose. Đồng thời, liraglutide làm giảm sự tiết glucagon cao không thích hợp, cũng theo cách phụ thuộc glucose. Vì vậy, khi đường huyết cao, sự tiết insulin được kích thích và sự tiết glucagon bị ức chế. Ngược lại, khi đường huyết thấp, liraglutide làm giảm sự tiết insulin và không làm suy giảm sự tiết glucagon.
Tham gia vào cơ chế làm giảm đường huyết còn có sự chậm làm rỗng dạ dày nhẹ. Liraglutide làm giảm cân nặng và khối lượng chất béo trong cơ thể qua cơ chế bao gồm làm giảm cảm giác đói và giảm năng lượng nạp vào.
11. Quá liều và xử trí quá liều
Từ các thử nghiệm lâm sàng và việc sử dụng khi thuốc lưu hành trên thị trường, đã có báo cáo các trường hợp dùng quá liều lên đến 40 lần liều duy trì được khuyến cáo (72 mg). Các biến cố đã được báo cáo bao gồm buồn nôn và nôn nặng. Không có báo cáo nào bao gồm hạ đường huyết nặng. Tất cả bệnh nhân đã phục hồi không có biến chứng.
Trong trường hợp quá liều, cần bắt đầu điều trị hỗ trợ thích hợp tùy theo các triệu chứng cơ năng và thực thể trên lâm sàng của bệnh nhân.
Trong trường hợp quá liều, cần bắt đầu điều trị hỗ trợ thích hợp tùy theo các triệu chứng cơ năng và thực thể trên lâm sàng của bệnh nhân.
12. Bảo quản
Bảo quản trong tủ lạnh (2°C - 8°C ).
Để xa bộ phận làm lạnh.
Không để đông lạnh.
Sau khi sử dụng lần đầu:
Bảo quản dưới 30°C hoặc trong tủ lạnh (2°C - 8°C ).
Không để đông lạnh.
Đậy nắp bút tiêm để tránh ánh sáng.
Để xa bộ phận làm lạnh.
Không để đông lạnh.
Sau khi sử dụng lần đầu:
Bảo quản dưới 30°C hoặc trong tủ lạnh (2°C - 8°C ).
Không để đông lạnh.
Đậy nắp bút tiêm để tránh ánh sáng.