Dược sĩ Quách Thi Hậu
Đã duyệt nội dung
Dược sĩ Quách Thi Hậu
Đã duyệt nội dung
Thông tin sản phẩm
1. Thành phần của CellCept 250mg
Hoạt chất: mycophenolate mofetil (MMF).
Dùng đường uống.
Mỗi viên nang chứa 250mg mycophenolate mofetil.
Tá dược: Pregelatinized starch (maize), croscarmellose sodium, magnesium stearate.
Dùng đường uống.
Mỗi viên nang chứa 250mg mycophenolate mofetil.
Tá dược: Pregelatinized starch (maize), croscarmellose sodium, magnesium stearate.
2. Công dụng của CellCept 250mg
CellCept được chỉ định để dự phòng hiện tượng thải ghép cấp tính và để điều trị tình trạng thải ghép lần đầu hoặc đáp ứng kém với điều trị ở những bệnh nhân ghép thận không cùng huyết thống.
CellCept được chỉ định để dự phòng hiện lượng thải ghép cấp tính ở những bệnh nhân ghép tim không cùng huyết thống. Ở những bệnh nhân được điều trị, MMF giúp cải thiện khả năng sống trong năm đầu tiên sau khi được ghép tim.
CellCept cần được sử dụng đồng thời với cyclosporin và corticosteroid.
CellCept được chỉ định để dự phòng hiện lượng thải ghép cấp tính ở những bệnh nhân ghép tim không cùng huyết thống. Ở những bệnh nhân được điều trị, MMF giúp cải thiện khả năng sống trong năm đầu tiên sau khi được ghép tim.
CellCept cần được sử dụng đồng thời với cyclosporin và corticosteroid.
3. Liều lượng và cách dùng của CellCept 250mg
Liều chuẩn để dự phòng thải ghép thận
Liều khuyên dùng là 1g dùng đường uống hoặc truyền tĩnh mạch (thời gian truyền TỐI THIỂU LÀ HAI GIỜ), hai lần mỗi ngày (dùng 2g mỗi ngày) cho những bệnh nhân ghép thận. Mặc dầu trong các thử nghiệm lâm sàng, mức liều 1.5g hai lần mỗi ngày (3g mỗi ngày) đã cho thấy tính an toàn và hiệu quả, nhưng sự vượt trội về hiệu quả chưa được xác định cho những bệnh nhân ghép thận. Nhìn chung, những bệnh nhân dùng CellCept liều 2g/ngày cho thấy độ an toàn cao hơn những bệnh nhân dùng CellCept liều 3g/ngày.
Liều chuẩn để dự phòng thải ghép tim
Bệnh nhân trưởng thành: Liều khuyên dùng cho những bệnh nhân ghép tim là 1,5g dùng đường uống hoặc truyền tĩnh mạch (thời gian truyền TỐI THIỂU LÀ HAI GIỜ), hai lần mỗi ngày (3g một ngày).
Liều chuẩn để dự phòng thải ghép gan
Bệnh nhân trưởng thành: Liều khuyên dùng cho những bệnh nhân ghép gan là 1g dùng đường truyền tĩnh mạch (thời gian truyền TỐI THIỂU LÀ HAI GIỜ), hai lần mỗi ngày (2g một ngày); hoặc 1,5g dùng đường uống, hai lần mỗi ngày (3g một ngày)
Liều chuẩn để điều trị hiện tựợng thải ghép thận lần đầu hoặc khó điều trị
Bệnh nhân trưởng thành: Liều khuyên dùng là 1,5g dùng đường uống hoặc truyền tĩnh mạch (thời gian truyền TỐI THIỂU LÀ HAI GIỜ), hai lần mỗi ngày (3g một ngày).
Dùng đường uống
Liều khởi đầu của CellCept phải được dùng càng sớm càng tốt ngay sau khi ghép thận, ghép tim hoặc ghép gan.
Dùng đường truyền tĩnh mạch
Thận trọng: Cellcept dạng tiêm truyền tĩnh mạch không được tiêm nhanh hoặc truyền nhanh vào tĩnh mạch CellCept dùng đường truyền tĩnh mạch là dạng liều dùng được khuyên dùng để thay thế cho CellCept dạng viên nang hoặc viên nén khi bệnh nhân không thể uống CellCept. CellCept nên được truyền tĩnh mạch trong vòng 24 giờ sau khi ghép tạng. Có thể truyền tĩnh mạch CellCept đến 14 ngày. Ngay khi có thể dùng thuốc theo đường uống, nên chuyển sang dùng CellCept đường uống cho bệnh nhân.
Sau khi pha chế và pha loãng với dung dịch truyền tĩnh mạch Dextrose 5% để đạt đến nồng độ 6mg/ml.
CellCept phải được truyền chậm vào tĩnh mạch ngoại biên hoặc tĩnh mạch trung tâm trong thời gian TỐI THIỂU LÀ HAI TIẾNG.
Liều khuyên dùng là 1g dùng đường uống hoặc truyền tĩnh mạch (thời gian truyền TỐI THIỂU LÀ HAI GIỜ), hai lần mỗi ngày (dùng 2g mỗi ngày) cho những bệnh nhân ghép thận. Mặc dầu trong các thử nghiệm lâm sàng, mức liều 1.5g hai lần mỗi ngày (3g mỗi ngày) đã cho thấy tính an toàn và hiệu quả, nhưng sự vượt trội về hiệu quả chưa được xác định cho những bệnh nhân ghép thận. Nhìn chung, những bệnh nhân dùng CellCept liều 2g/ngày cho thấy độ an toàn cao hơn những bệnh nhân dùng CellCept liều 3g/ngày.
Liều chuẩn để dự phòng thải ghép tim
Bệnh nhân trưởng thành: Liều khuyên dùng cho những bệnh nhân ghép tim là 1,5g dùng đường uống hoặc truyền tĩnh mạch (thời gian truyền TỐI THIỂU LÀ HAI GIỜ), hai lần mỗi ngày (3g một ngày).
Liều chuẩn để dự phòng thải ghép gan
Bệnh nhân trưởng thành: Liều khuyên dùng cho những bệnh nhân ghép gan là 1g dùng đường truyền tĩnh mạch (thời gian truyền TỐI THIỂU LÀ HAI GIỜ), hai lần mỗi ngày (2g một ngày); hoặc 1,5g dùng đường uống, hai lần mỗi ngày (3g một ngày)
Liều chuẩn để điều trị hiện tựợng thải ghép thận lần đầu hoặc khó điều trị
Bệnh nhân trưởng thành: Liều khuyên dùng là 1,5g dùng đường uống hoặc truyền tĩnh mạch (thời gian truyền TỐI THIỂU LÀ HAI GIỜ), hai lần mỗi ngày (3g một ngày).
Dùng đường uống
Liều khởi đầu của CellCept phải được dùng càng sớm càng tốt ngay sau khi ghép thận, ghép tim hoặc ghép gan.
Dùng đường truyền tĩnh mạch
Thận trọng: Cellcept dạng tiêm truyền tĩnh mạch không được tiêm nhanh hoặc truyền nhanh vào tĩnh mạch CellCept dùng đường truyền tĩnh mạch là dạng liều dùng được khuyên dùng để thay thế cho CellCept dạng viên nang hoặc viên nén khi bệnh nhân không thể uống CellCept. CellCept nên được truyền tĩnh mạch trong vòng 24 giờ sau khi ghép tạng. Có thể truyền tĩnh mạch CellCept đến 14 ngày. Ngay khi có thể dùng thuốc theo đường uống, nên chuyển sang dùng CellCept đường uống cho bệnh nhân.
Sau khi pha chế và pha loãng với dung dịch truyền tĩnh mạch Dextrose 5% để đạt đến nồng độ 6mg/ml.
CellCept phải được truyền chậm vào tĩnh mạch ngoại biên hoặc tĩnh mạch trung tâm trong thời gian TỐI THIỂU LÀ HAI TIẾNG.
4. Chống chỉ định khi dùng CellCept 250mg
Các phản ứng dị ứng với CellCept đã được ghi nhận. Vì vậy, CellCept được chống chỉ định ở những bệnh nhân bị quá mẫn với mycophenolate mofetil hoặc axit mycophenolic.
CellCept dạng truyền tĩnh mạch cũng chống chỉ định ở những bệnh nhân có tiền sử bị quá mẫn với polysorbate 80.
Chống chỉ định dùng CellCept cho phụ nữ mang thai do có khả năng gây đột biến và quái thai.
Chống chỉ định dùng CellCept cho phụ nữ có khả năng mang thai mà không sử dụng các biện pháp tránh thai
hiệu quả cao.
Chống chỉ định dùng CellCept cho phụ nữ đang cho con bú.
CellCept dạng truyền tĩnh mạch cũng chống chỉ định ở những bệnh nhân có tiền sử bị quá mẫn với polysorbate 80.
Chống chỉ định dùng CellCept cho phụ nữ mang thai do có khả năng gây đột biến và quái thai.
Chống chỉ định dùng CellCept cho phụ nữ có khả năng mang thai mà không sử dụng các biện pháp tránh thai
hiệu quả cao.
Chống chỉ định dùng CellCept cho phụ nữ đang cho con bú.
5. Thận trọng khi dùng CellCept 250mg
Thận trọng: Cellcept dạng tiêm truyền tĩnh mạch không được tiêm nhanh hoặc truyền nhanh vào tĩnh mạch
Khối u
Cũng như đối với tất cả những bệnh nhân sử dụng phác đồ kết hợp các thuốc ức chế miễn dịch, những bệnh nhân có sử dụng CellCept trong phác đồ ức chế miễn dịch đều có tăng nguy cơ bị u lympho hoặc các bệnh ác tính khác, đặc biệt là ở da. Nguy cơ này dường như có liên quan tới cường độ và thời gian điều trị ức chế miễn dịch hơn là do việc sử dụng một loại thuốc nào đó.
Như tất cả các bệnh nhân có nguy cơ cao bị ung thư da, nên hạn chế tiếp xúc với ánh sáng mặt trời và tia cực tím bằng cách mặc quần áo bảo vệ và đeo kính chống nắng có yếu tố bảo vệ cao.
Nhiễm khuẩn
Sự ức chế hệ thống miễn dịch quá mức cũng có thể làm tăng tính dễ bị nhiễm trùng bao gồm nhiễm trùng cơ hội, các nhiễm khuẩn nặng đe dọa tính mạng và nhiễm trùng huyết. Các nhiễm trùng bao gồm cả sự tái kích hoạt virus tiềm tàng, chẳng hạn tái phát viêm gan B hoặc viêm gan C hoặc các nhiễm trùng gây ra bởi các polyomavirus. Một số trường hợp viêm gan do tái phát viêm gan B hoặc viêm gan C đã được ghi nhận ở những bệnh nhân có mầm bệnh được điều trị bởi các thuốc ức chế miễn dịch . Trường hợp bệnh lý chất trắng não đa số tiến triển (Progressive Multifocal Leukoencephalopathy - PML) liên quan tới JC virus, vài trường hợp tử vong đã được ghi nhận trên bệnh nhân điều trị bằng Cellcept. Các ca được ghi nhận thường có nguy cơ cao cho PML, bao gồm cả điều trị ức chế miễn dịch và chức năng miễn dịch bị suy giảm. Đối với các bệnh nhân dùng thuốc ức chế miễn dịch, các bác sỹ cần chú ý tới trường hợp PML khi chẩn đoán phân biệt ở những bệnh nhân có triệu chứng về thần kinh và cần tham khảo ý kiến của các bác sỹ chuyên khoa thần kinh.
Bệnh thận liên quan tới virus BK đã được ghi nhận trong quá trình dùng CellCept ở bệnh nhân sau ghép thận. Sự nhiễm trùng này có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng, đôi khi dẫn tới hỏng thận ghép. Theo dõi bệnh nhân giúp phát hiện những bệnh nhân có nguy cơ bệnh thận liên quan tới virus BK. Cần xem xét giảm bớt sự ức chế miễn dịch ở bệnh nhân có bằng chứng bệnh thận liên quan tới virus BK.
Hệ máu và miễn dịch
Một số trường hợp bất sản nguyên bào hồng cầu đơn thuần (PRCA) đã được ghi nhận trên bệnh nhân điều trị bằng CellCept có kết hợp với các thuốc ức chế miễn dịch khác. Cơ chế gây ra PRCA của mycophenolate mofetil hiện chưa rõ; mối liên hệ của các thuốc ức chế miễn dịch khác và sự kết hợp của chúng trong một phác đồ ức chế miễn dịch hiện cũng chưa rõ. Trong một số trường hợp, PRCA đã được ghi nhận là phục hồi được
nếu giảm liều hoặc ngừng điều trị bằng CellCept. Tuy nhiên, ở bệnh nhân ghép tạng, nếu giảm liệu pháp ức chế miễn dịch sẽ xuất hiện nguy cơ tại mô ghép.
Bệnh nhân sử dụng Cellcept cần được hướng dẫn để báo cáo ngay lập tức các dấu hiệu nhiễm trùng, các vết thâm tím, chảy máu hay ức chế tủy xương.
Những bệnh nhân sử dụng CellCept cần được kiểm tra công thức máu toàn phần, mỗi tuần một lần trong tháng đầu tiên, mỗi tháng 2 lần trong tháng thứ 2 và 3, sau đó kiểm tra hàng tháng cho tới hết năm đầu tiên. Đặc biệt, những bệnh nhân dùng CellCept cần được theo dõi để phát hiện sự giảm bạch cầu đa nhân trung tính. Tình trạng giảm bạch cầu đa nhân trung tính có thể liên quan đến việc sử dụng CellCept, các thuốc phối hợp, nhiễm vi rút hoặc do kết hợp của các nguyên nhân này. Nếu có
tình trạng giảm bạch cầu đa nhân trung tính (số lượng bạch cầu đa nhân trung tính tuyệt đối <1,3 X 103/µl ), nên ngừng sử dụng CellCept hoặc giảm liều và bệnh nhân cần được theo dõi một cách cẩn thận.
Nên cho bệnh nhân biết rằng trong quá trình điều trị bằng CellCept, hiệu quả của sự tiêm chủng có thể bị giảm và nên tránh sử dụng các loại vaccine sống đã làm giảm độc lực. Có thể tiêm chủng influenza. Các bác sỹ nên tham khảo các hướng dẫn quốc gia về tiêm chủng influenza.
Dạ dày - ruột
Do CellCept làm tăng tỉ lệ các biến cố bất lợi xảy ra ở hệ tiêu hóa, bao gồm các trường hợp ít gặp như loét đường tiêu hóa, xuất huyết và thủng, nên thận trọng khi dùng CellCept cho các bệnh nhân có bệnh của hệ tiêu hóa.
CellCept là một thuốc ức chế inosine monophosphate dehydrogenase (IMPDH), vì vậy không nên sử dụng cho
bệnh nhân bị thiếu enzym hypoxanthin - guanincphosphoribosyl - transferase (HGPRT) có tính chất di truyền và hiếm gặp như hội chứng Lesch - Nyhan và Kelley- Seegmiller.
Tương tác
Cần thận trọng khi thay đổi phác đồ điều trị từ liệu pháp có chứa các thuốc ức chế miễn dịch có thể gây ức chế tuần hoàn gan ruột của MPA như ciclosporin sang các thuốc khác không có tác dụng này như sirolimus, belatacept, hay ngược lại, do sự thay đổi phác đồ điều trị có thể làm thay đổi nồng độ MPA. cần thận trọng với những thuốc có thể gây ức chế chu trình gan ruột của MPA như cholestyramin, kháng sinh do khả năng làm giảm nồng độ trong huyết tương và hiệu quả của Cellcept.Người ta khuyến cáo không nên sử dụng Cellcept cùng với azathioprine bởi vì cả hai thuốc này có thê làm ức chế tủy xương và sự kết hợp này chưa được nghiên cứu.
Các trường hợp đặc biệt
Nguy cơ xảy ra các biến cố bất lợi có thể tăng trên bệnh nhân lớn tuổi như nhiễm khuẩn (bao gồm bệnh virus cự bào xâm lấn mô) và xuất huyết tiêu hóa và phù phổi khi so sánh với các bệnh nhân trẻ tuổi hơn.
Chống chỉ định dùng Cellcept cho phụ nữ mang thai và bà mẹ đang cho con bú.
Nên tránh dùng liều vượt quá 1g, hai lần mỗi ngày ở những bệnh nhân suy chức năng thận mạn.
Không cần điều chỉnh liều ở những bệnh nhân sau ghép tạng có chức năng thận hồi phục chậm, nhưng phải theo dõi bệnh nhân một cách cẩn thận. Không có các dữ liệu ở những bệnh nhân ghép tim hoặc ghép gan có suy thận nặng.
Cellcept hỗn dịch đường uống có chứa aspartame, nguồn gốc của phenylamine (tương đương hỗn dịch uống). Vì vậy, cần thận trọng khi sử dụng Cellcept hỗn dịch uống cho bệnh nhân phenylketonuria.
Khối u
Cũng như đối với tất cả những bệnh nhân sử dụng phác đồ kết hợp các thuốc ức chế miễn dịch, những bệnh nhân có sử dụng CellCept trong phác đồ ức chế miễn dịch đều có tăng nguy cơ bị u lympho hoặc các bệnh ác tính khác, đặc biệt là ở da. Nguy cơ này dường như có liên quan tới cường độ và thời gian điều trị ức chế miễn dịch hơn là do việc sử dụng một loại thuốc nào đó.
Như tất cả các bệnh nhân có nguy cơ cao bị ung thư da, nên hạn chế tiếp xúc với ánh sáng mặt trời và tia cực tím bằng cách mặc quần áo bảo vệ và đeo kính chống nắng có yếu tố bảo vệ cao.
Nhiễm khuẩn
Sự ức chế hệ thống miễn dịch quá mức cũng có thể làm tăng tính dễ bị nhiễm trùng bao gồm nhiễm trùng cơ hội, các nhiễm khuẩn nặng đe dọa tính mạng và nhiễm trùng huyết. Các nhiễm trùng bao gồm cả sự tái kích hoạt virus tiềm tàng, chẳng hạn tái phát viêm gan B hoặc viêm gan C hoặc các nhiễm trùng gây ra bởi các polyomavirus. Một số trường hợp viêm gan do tái phát viêm gan B hoặc viêm gan C đã được ghi nhận ở những bệnh nhân có mầm bệnh được điều trị bởi các thuốc ức chế miễn dịch . Trường hợp bệnh lý chất trắng não đa số tiến triển (Progressive Multifocal Leukoencephalopathy - PML) liên quan tới JC virus, vài trường hợp tử vong đã được ghi nhận trên bệnh nhân điều trị bằng Cellcept. Các ca được ghi nhận thường có nguy cơ cao cho PML, bao gồm cả điều trị ức chế miễn dịch và chức năng miễn dịch bị suy giảm. Đối với các bệnh nhân dùng thuốc ức chế miễn dịch, các bác sỹ cần chú ý tới trường hợp PML khi chẩn đoán phân biệt ở những bệnh nhân có triệu chứng về thần kinh và cần tham khảo ý kiến của các bác sỹ chuyên khoa thần kinh.
Bệnh thận liên quan tới virus BK đã được ghi nhận trong quá trình dùng CellCept ở bệnh nhân sau ghép thận. Sự nhiễm trùng này có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng, đôi khi dẫn tới hỏng thận ghép. Theo dõi bệnh nhân giúp phát hiện những bệnh nhân có nguy cơ bệnh thận liên quan tới virus BK. Cần xem xét giảm bớt sự ức chế miễn dịch ở bệnh nhân có bằng chứng bệnh thận liên quan tới virus BK.
Hệ máu và miễn dịch
Một số trường hợp bất sản nguyên bào hồng cầu đơn thuần (PRCA) đã được ghi nhận trên bệnh nhân điều trị bằng CellCept có kết hợp với các thuốc ức chế miễn dịch khác. Cơ chế gây ra PRCA của mycophenolate mofetil hiện chưa rõ; mối liên hệ của các thuốc ức chế miễn dịch khác và sự kết hợp của chúng trong một phác đồ ức chế miễn dịch hiện cũng chưa rõ. Trong một số trường hợp, PRCA đã được ghi nhận là phục hồi được
nếu giảm liều hoặc ngừng điều trị bằng CellCept. Tuy nhiên, ở bệnh nhân ghép tạng, nếu giảm liệu pháp ức chế miễn dịch sẽ xuất hiện nguy cơ tại mô ghép.
Bệnh nhân sử dụng Cellcept cần được hướng dẫn để báo cáo ngay lập tức các dấu hiệu nhiễm trùng, các vết thâm tím, chảy máu hay ức chế tủy xương.
Những bệnh nhân sử dụng CellCept cần được kiểm tra công thức máu toàn phần, mỗi tuần một lần trong tháng đầu tiên, mỗi tháng 2 lần trong tháng thứ 2 và 3, sau đó kiểm tra hàng tháng cho tới hết năm đầu tiên. Đặc biệt, những bệnh nhân dùng CellCept cần được theo dõi để phát hiện sự giảm bạch cầu đa nhân trung tính. Tình trạng giảm bạch cầu đa nhân trung tính có thể liên quan đến việc sử dụng CellCept, các thuốc phối hợp, nhiễm vi rút hoặc do kết hợp của các nguyên nhân này. Nếu có
tình trạng giảm bạch cầu đa nhân trung tính (số lượng bạch cầu đa nhân trung tính tuyệt đối <1,3 X 103/µl ), nên ngừng sử dụng CellCept hoặc giảm liều và bệnh nhân cần được theo dõi một cách cẩn thận.
Nên cho bệnh nhân biết rằng trong quá trình điều trị bằng CellCept, hiệu quả của sự tiêm chủng có thể bị giảm và nên tránh sử dụng các loại vaccine sống đã làm giảm độc lực. Có thể tiêm chủng influenza. Các bác sỹ nên tham khảo các hướng dẫn quốc gia về tiêm chủng influenza.
Dạ dày - ruột
Do CellCept làm tăng tỉ lệ các biến cố bất lợi xảy ra ở hệ tiêu hóa, bao gồm các trường hợp ít gặp như loét đường tiêu hóa, xuất huyết và thủng, nên thận trọng khi dùng CellCept cho các bệnh nhân có bệnh của hệ tiêu hóa.
CellCept là một thuốc ức chế inosine monophosphate dehydrogenase (IMPDH), vì vậy không nên sử dụng cho
bệnh nhân bị thiếu enzym hypoxanthin - guanincphosphoribosyl - transferase (HGPRT) có tính chất di truyền và hiếm gặp như hội chứng Lesch - Nyhan và Kelley- Seegmiller.
Tương tác
Cần thận trọng khi thay đổi phác đồ điều trị từ liệu pháp có chứa các thuốc ức chế miễn dịch có thể gây ức chế tuần hoàn gan ruột của MPA như ciclosporin sang các thuốc khác không có tác dụng này như sirolimus, belatacept, hay ngược lại, do sự thay đổi phác đồ điều trị có thể làm thay đổi nồng độ MPA. cần thận trọng với những thuốc có thể gây ức chế chu trình gan ruột của MPA như cholestyramin, kháng sinh do khả năng làm giảm nồng độ trong huyết tương và hiệu quả của Cellcept.Người ta khuyến cáo không nên sử dụng Cellcept cùng với azathioprine bởi vì cả hai thuốc này có thê làm ức chế tủy xương và sự kết hợp này chưa được nghiên cứu.
Các trường hợp đặc biệt
Nguy cơ xảy ra các biến cố bất lợi có thể tăng trên bệnh nhân lớn tuổi như nhiễm khuẩn (bao gồm bệnh virus cự bào xâm lấn mô) và xuất huyết tiêu hóa và phù phổi khi so sánh với các bệnh nhân trẻ tuổi hơn.
Chống chỉ định dùng Cellcept cho phụ nữ mang thai và bà mẹ đang cho con bú.
Nên tránh dùng liều vượt quá 1g, hai lần mỗi ngày ở những bệnh nhân suy chức năng thận mạn.
Không cần điều chỉnh liều ở những bệnh nhân sau ghép tạng có chức năng thận hồi phục chậm, nhưng phải theo dõi bệnh nhân một cách cẩn thận. Không có các dữ liệu ở những bệnh nhân ghép tim hoặc ghép gan có suy thận nặng.
Cellcept hỗn dịch đường uống có chứa aspartame, nguồn gốc của phenylamine (tương đương hỗn dịch uống). Vì vậy, cần thận trọng khi sử dụng Cellcept hỗn dịch uống cho bệnh nhân phenylketonuria.
6. Sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai và cho con bú
Phụ nữ có thai
Chống chỉ định dùng CellCept cho phụ nữ mang thai và phụ nữ có khả năng mang thai mà không sử dụng các biện pháp tránh thai hiệu quả cao.
Trước khi bắt đầu điều trị, bệnh nhân nam và nữ có khả năng sinh sản phải được cảnh báo về tăng nguy cơ sẩy thai và dị tật thai nhi bẩm sinh và phải được tư vấn về các biện pháp tránh thai và kế hoạch mang thai.
Trước khi bắt đầu điều trị bằng CellCept, bệnh nhân nữ có khả năng mang thai phải có kết quả hai xét nghiệm thử thai bằng huyết thanh hoặc nước tiểu âm tính với độ nhạy ít nhất là 25 mIU/mL, xét nghiệm thứ hai nên được tiến hành 8-10 ngày sau xét nghiệm đầu và ngay trước khi bắt đầu điều trị bằng CellCept. Xét nghiệm thử thai cần được thực hiện lại trong những lần theo dõi định kì. Nên thảo luận với bệnh nhân về kết quả tất cả các xét nghiệm thử thai. Bệnh nhân cần được hướng dẫn để tham khảo ý kiến bác sỹ ngay khi mang thai xảy ra.
Do CellCept có khả năng gây đột biến gen và quái thai, phụ nữ có khã năng mang thai nên sử dụng cùng lúc hai biện pháp tránh thai đáng tin cậy, bao gồm ít nhất một biện pháp có hiệu quả cao trước khi bắt đầu điều trị, trong quá trình điều trị, và trong 6 tuần sau khi ngừng điều trị, trừ trường hợp kiêng quan hệ tình dục. Đối với nam giới, khuyến cáo sử dụng bao cao su trong quá trình điều trị và ít nhất 90 ngày sau khi ngừng điều trị. Áp dụng sử dụng bao cao su cho cả nam giới có khả năng sinh sản và nam giới đã thắt ống dẫn tinh do nguy cơ liên quan tới tinh dịch cũng có thể xảy ra với nam giới đã thắt ống dẫn tinh. Ngoài ra, khuyến cáo sử dụng biện pháp tránh thai có hiệu quả cao cho những người bạn tình của bệnh nhân nam trong quá trình điều trị và trong 90 ngày sau liều thuốc cuối cùng.
Dị tật bẩm sinh, bao gồm cả đa dị tật đã được báo cáo sau khi lưu hành thuốc ở con của những bệnh nhân đã dùng mycophenolate mofetil kết hợp với thuốc ức chế miễn dịch khác trong thời gian mang thai.
Các dị tật dưới đây được báo cáo thường xuyên nhất:
- Dị tật trên khuôn mặt như sút môi, hở hàm ếch, tật hàm nhỏ, hai ổ mắt cách xa nhau.
- Bất thường về tai (như hình dạng khác thường hay thiếu tai giữa hay tai ngoài) và mắt (như khuyết ở mặt, mắt nhỏ).
- Dị tật các ngón tay (như thừa ngón, liền ngón, ngón ngắn).
- Bất thường về tim như thông liên nhĩ và thông liên thất.
- Dị tật thực quản (như hẹp thực quản).
- Dị tật thần kinh (như nứt đốt sống).
Trong y văn, dị tật ở con của các bà mẹ sử dụng mycophenolate mofetil khi mang thai đã được báo cáo từ 23 - 27% trẻ sống. Để so sánh, nguy cơ dị tật ước tính khoảng 2% trẻ sống trong tổng dân số và khoảng 4 - 5% ở những bệnh nhân ghép tạng đặc điều trị với các thuốc ức chế miễn dịch không phải mycophenolate mofetil.
Các trường hợp sẩy thai tự nhiên đã được báo cáo ở các bệnh nhân sử dụng mycophenolate mofetil, chủ yếu là trong 3 tháng đầu thai kì.
Trong y văn, nguy cơ được báo cáo khoảng 45-49% sau khi dùng mycophenolate mofetil so sánh với tỉ lệ
khoảng từ 12 đến 33% ở bệnh nhân ghép tạng đặc điều trị bằng các thuốc ức chế miễn dịch khác.
Nghiên cứu trên động vật cho thấy có độc tính lên hệ sinh sản.
Bà mẹ đang cho con bú
Chống chỉ định dùng CellCept trong thời gian cho con bú do khả năng gây các phản ứng không mong muốn nghiêm trọng trên trẻ bú mẹ.
Những nghiên cứu trên chuột cho thấy mycophenolate mofetil được bài tiết qua sữa. Hiện chưa rõ liệu CellCept có bài tiết vào sữa mẹ hay không.
Chống chỉ định dùng CellCept cho phụ nữ mang thai và phụ nữ có khả năng mang thai mà không sử dụng các biện pháp tránh thai hiệu quả cao.
Trước khi bắt đầu điều trị, bệnh nhân nam và nữ có khả năng sinh sản phải được cảnh báo về tăng nguy cơ sẩy thai và dị tật thai nhi bẩm sinh và phải được tư vấn về các biện pháp tránh thai và kế hoạch mang thai.
Trước khi bắt đầu điều trị bằng CellCept, bệnh nhân nữ có khả năng mang thai phải có kết quả hai xét nghiệm thử thai bằng huyết thanh hoặc nước tiểu âm tính với độ nhạy ít nhất là 25 mIU/mL, xét nghiệm thứ hai nên được tiến hành 8-10 ngày sau xét nghiệm đầu và ngay trước khi bắt đầu điều trị bằng CellCept. Xét nghiệm thử thai cần được thực hiện lại trong những lần theo dõi định kì. Nên thảo luận với bệnh nhân về kết quả tất cả các xét nghiệm thử thai. Bệnh nhân cần được hướng dẫn để tham khảo ý kiến bác sỹ ngay khi mang thai xảy ra.
Do CellCept có khả năng gây đột biến gen và quái thai, phụ nữ có khã năng mang thai nên sử dụng cùng lúc hai biện pháp tránh thai đáng tin cậy, bao gồm ít nhất một biện pháp có hiệu quả cao trước khi bắt đầu điều trị, trong quá trình điều trị, và trong 6 tuần sau khi ngừng điều trị, trừ trường hợp kiêng quan hệ tình dục. Đối với nam giới, khuyến cáo sử dụng bao cao su trong quá trình điều trị và ít nhất 90 ngày sau khi ngừng điều trị. Áp dụng sử dụng bao cao su cho cả nam giới có khả năng sinh sản và nam giới đã thắt ống dẫn tinh do nguy cơ liên quan tới tinh dịch cũng có thể xảy ra với nam giới đã thắt ống dẫn tinh. Ngoài ra, khuyến cáo sử dụng biện pháp tránh thai có hiệu quả cao cho những người bạn tình của bệnh nhân nam trong quá trình điều trị và trong 90 ngày sau liều thuốc cuối cùng.
Dị tật bẩm sinh, bao gồm cả đa dị tật đã được báo cáo sau khi lưu hành thuốc ở con của những bệnh nhân đã dùng mycophenolate mofetil kết hợp với thuốc ức chế miễn dịch khác trong thời gian mang thai.
Các dị tật dưới đây được báo cáo thường xuyên nhất:
- Dị tật trên khuôn mặt như sút môi, hở hàm ếch, tật hàm nhỏ, hai ổ mắt cách xa nhau.
- Bất thường về tai (như hình dạng khác thường hay thiếu tai giữa hay tai ngoài) và mắt (như khuyết ở mặt, mắt nhỏ).
- Dị tật các ngón tay (như thừa ngón, liền ngón, ngón ngắn).
- Bất thường về tim như thông liên nhĩ và thông liên thất.
- Dị tật thực quản (như hẹp thực quản).
- Dị tật thần kinh (như nứt đốt sống).
Trong y văn, dị tật ở con của các bà mẹ sử dụng mycophenolate mofetil khi mang thai đã được báo cáo từ 23 - 27% trẻ sống. Để so sánh, nguy cơ dị tật ước tính khoảng 2% trẻ sống trong tổng dân số và khoảng 4 - 5% ở những bệnh nhân ghép tạng đặc điều trị với các thuốc ức chế miễn dịch không phải mycophenolate mofetil.
Các trường hợp sẩy thai tự nhiên đã được báo cáo ở các bệnh nhân sử dụng mycophenolate mofetil, chủ yếu là trong 3 tháng đầu thai kì.
Trong y văn, nguy cơ được báo cáo khoảng 45-49% sau khi dùng mycophenolate mofetil so sánh với tỉ lệ
khoảng từ 12 đến 33% ở bệnh nhân ghép tạng đặc điều trị bằng các thuốc ức chế miễn dịch khác.
Nghiên cứu trên động vật cho thấy có độc tính lên hệ sinh sản.
Bà mẹ đang cho con bú
Chống chỉ định dùng CellCept trong thời gian cho con bú do khả năng gây các phản ứng không mong muốn nghiêm trọng trên trẻ bú mẹ.
Những nghiên cứu trên chuột cho thấy mycophenolate mofetil được bài tiết qua sữa. Hiện chưa rõ liệu CellCept có bài tiết vào sữa mẹ hay không.
7. Tác dụng không mong muốn
Thông báo cho bác sỹ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.
Các biến cố bắt lợi xảy ra khi sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch thường rất khó xác định do sự hiện diện của bệnh đang có và sử dụng cùng một lúc nhiều thuốc khác nhau.
Các biến cố bắt lợi xảy ra khi sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch thường rất khó xác định do sự hiện diện của bệnh đang có và sử dụng cùng một lúc nhiều thuốc khác nhau.
8. Tương tác với các thuốc khác
Acyclovir: nồng độ huyết tương của acyclovir và MPAG khi dùng cùng mycophenolate mofetil với acyclovir cao hơn khi dùng riêng lẻ từng thuốc một. Bởi vì nồng độ MPAG trong huyết tương cũng như nông độ acyclovir hay dạng tiền chất của nó, valacyclovir, tăng khi có suy thận, có khả năng hai thuốc có sự cạnh tranh thải trừ ở ống thận và có thể gây tăng hơn nữa nồng độ cả hai thuốc.
Các thuốc kháng acid và các thuốc ức chế bơm proton (PPIs): Khi uống kèm chất kháng acid như hydroxit magne và hydroxit nhôm, và PPIs, như lansoprazole và pantoprazole độ hấp thu của mycophenolate mofetil bị giảm. Khi so sánh tỷ lệ thải ghép hoặc tỷ lệ mất tạng ghép giữa bệnh nhân Cellcept uống PPIs với bệnh nhân không uống PPIs, không quan sát thấy sự khác biệt đáng kể. Những dữ liệu này giúp ngoại suy kết luận này cho tất cả các thuốc kháng axit do sự giảm hấp thu khi dùng đồng thời Cellcept với hydroxit magne và hydroxit nhôm được coi như thấp hơn khi dùng Cellcept đồng thời với PPIs.
Cholestyramine: ở những người khỏe mạnh bình thường đã được dùng 4 g cholestyramine ba lần một ngày trong 4 ngày sau đó dùng liều đơn 1,5 g mycophenolate mofetil, diện tích dưới đường cong của MPA giảm 40%. Nên thận trọng khi dùng cùng với các thuốc làm hạn chế vòng tái tuần hoàn gan - ruột.
Ciclosporin A: Dược động học của ciclosporin A (CsA) không bị ảnh hưởng bởi mycophenolate mofetil. Tuy nhiên, CsA ức chế tuần hoàn gan ruột của MPA, làm giảm nồng độ MPA từ 30 - 50% ở bệnh nhân ghép thận điều trị bằng Cellcept và CsA khi so sánh với bệnh nhân dùng sirolimus hay belatacept và cellcept với liều tương tự Cellcept. Ngược lại, những thay đổi về nồng độ của MPA cần được dự kiến khi chuyển sử dụng cho bệnh nhân từ CsA sang thuốc ức chế miễn dịch khác không gây ảnh hưởng lên chu trình gan ruột của MPA.
Telmisartan: Sử dụng đồng thời telmisartan và cellcept làm giảm khoảng 30% nồng độ acid mycophenolic (MPA). Telmisartan làm thay đổi sự bài tiết của MPA do kích hoạt PPAR gamma (peroxisome proliferator
kích hoạt thụ thể gamma) gây tăng hoạt động của UGT1A9. Khi so sánh tỉ lệ thải ghép, tỉ lệ hỏng tạng ghép hay các biến cố bất lợi giữa bệnh nhân sử dụng cellcept đồng thời và không đồng thời với telmisartan, không có kết luận lâm sàng nào về dược động học DDI được quan sát thấy.
Ganciclovir: Trên cơ sở kết quả nghiên cứu liều đơn của liều khuyên dùng mycophenolate mofetil đường uống và ganciclovir tiêm tĩnh mạch; và ảnh hưởng đã biết của suy thận đối với dược động học của mycophenolate mofetil và ganciclovir, khi dùng đồng thời các thuốc này (có sự cạnh tranh về cơ chế bài tiết ở ống thận) sẽ làm tăng nồng độ MPAG và ganeiclovir. Không có sự thay đổi đáng kể về dược động học của MPA và không cần điều chỉnh liều
mycophenolate mofetil. Ở những bệnh nhân suy thận dùng đồng thời mycophenolate mofetil và ganciclovir
hoặc các tiền chất của nó, ví dụ valganeiclovir, cần theo dõi bệnh nhân một cách cẩn thận.
Thuốc tránh thai đường uống: Một nghiên cứu về việc dùng cùng CellCept (1g hai lần mỗi ngày) với các thuốc tránh thai đường uống có chứa ethinylestradiol (0,02-0,04mg) và levonorgestrel (0,05-0,20mg), desogestrel (0,15mg) hoặc gestodene (0,05 - 0,10mg) được tiến hành 18 phụ nữ bị bệnh vậy nên trong 3 chu kỳ kinh đã cho thấy CellCept không làm ảnh hưởng về mặt lâm sàng đến nồng độ của progesterone, LH và FSH, vì thế CellCept không có ảnh hưởng đến tác dụng ức chế rụng trứng của các thuốc tránh thai đường uống. Dược động học của thuốc tránh thai đường uống không bị ảnh hưởng ở mức độ lâm sàng khi sử dụng đồng thời với CellCept.
Rifampicin: Sau khi điều chỉnh đúng liều, người ta vẫn quan sát thấy có sự giảm 70% nồng độ MPA (AUC0-12) khi dùng phối hợp với rifampicin ở một bệnh nhân ghép tim-phổi. Vì vậy người ta khuyên nên theo dõi sát nồng độ MPA và cần phải điều chỉnh nồng độ CellCept cho phù hợp để duy trì hiệu quả lâm sàng khi sử dụng đồng thời hai thuốc này với nhau.
Tacrolimus: Dung tacrolimus đồng thời với CellCept không làm ảnh hưởng đến diện tích dưới đường cong AUC cũng như nồng độ đỉnh Cmax của MPA ở những bệnh nhân được ghép gan. Trong một nghiên cứu gần
đây, người ta thấy điều này cũng xảy ra ở những bệnh nhân được ghép thận.
Ở những bệnh nhân được ghép thận, nồng độ tacrolimus dường như không bị thay đổi bởi CellCept.
Tuy nhiên, ở các bệnh nhân ghép gan ổn định, có hiện tượng tăng giá trị AUC của tacrolimus khoang 20% khi dùng nhiều liều Cellcept (1,5g x 2 lần/ngày) phối hợp với tacrolimus.
Các thuốc kháng sinh tiêu diệt các vi khuẩn sản xuất β-glucuronidase trong ruột (ví dụ như aminoglycoside, cephalosporin, fluoroquinolon, và kháng sinh nhóm penicillin) có thể gây ảnh hưởng lên vòng tái tuần hoàn gan ruột MPAG/MPA vì vậy dẫn đến giảm nồng độ MPA.
Thông tin liên quan đến các kháng sinh như sau:
- Ciprofloxacin hoặc amoxicillin phối hợp với clavulanic acid: Giảm 54% nồng độ MPA (trũng) trước liều đã được ghi nhận ở bệnh nhân ghép thận vào những ngày ngay sau khi bắt đầu uống ciprofloxacin và amoxicillin phối hợp với clavulanic acid. Ảnh hưởng này có xu hướng giảm bớt khi tiếp tục sử dụng kháng sinh và hết hẳn
khi ngừng sử dụng kháng sinh. Sự thay đổi nồng độ trước liều này có thể không đại diện cho nồng độ MPA toàn phần, do đó sự liên quan về mặt lâm sàng của sự thay đổi này hiện vẫn chưa rõ.
- Norfloxacin và metronidazole: Norfloxacin kết hợp với metronidazole làm giảm AUC0-48 của MPA 30% sau khi uống liều đơn CellCept. Không có tác dụng này đổi với nông độ MPA với 1 trong hai kháng sinh trên khi chúng được dùng riêng biệt.
- Trimethoprim/sulphamethoxazole: Nồng độ MPA (AUC, Cmax) không bị ảnh hưởng khi kết hợp với trimethoprim/sulfamethoxazole
Các tương tác khác: Dùng phối hợp probenecid với myeophenolate mofetil ở khi làm tăng diện tích dưới đường
cong của MPAG 3 lần. Như vậy, các thuốc khác được biết là được bài tiết qua ống thận có thê cạnh tranh với MDPAG và do đó tăng nồng độ huyết tương của MPAG hoặc các thuốc thải qua ống thận.
Dùng phối hợp sevelamer với CellCept ở người trưởng thành và ở bệnh nhân sẽ làm giảm nồng độ đỉnh Cmax của MPA khoảng 30% và làm giảm giá trị AUC0-12 của MPA khoảng 25%. Từ dữ kiện này, người ta đề nghị rằng sau khi đã dùng CellCept 2 tiếng mới nên dùng sevelamer và những thuốc calci có ái lực kết gắn với gốc phosphate tự do khác nhằm giảm thiêu tác động của những thuốc này lên sự hấp thu MPA.
Vaccine sống: Vaccine sống không nên dùng cho bệnh nhân có đáp ứng miền dịch bị suy giảm. Đáp ứng kháng thể với những vaccine khác có thể bị giảm.
Các thuốc kháng acid và các thuốc ức chế bơm proton (PPIs): Khi uống kèm chất kháng acid như hydroxit magne và hydroxit nhôm, và PPIs, như lansoprazole và pantoprazole độ hấp thu của mycophenolate mofetil bị giảm. Khi so sánh tỷ lệ thải ghép hoặc tỷ lệ mất tạng ghép giữa bệnh nhân Cellcept uống PPIs với bệnh nhân không uống PPIs, không quan sát thấy sự khác biệt đáng kể. Những dữ liệu này giúp ngoại suy kết luận này cho tất cả các thuốc kháng axit do sự giảm hấp thu khi dùng đồng thời Cellcept với hydroxit magne và hydroxit nhôm được coi như thấp hơn khi dùng Cellcept đồng thời với PPIs.
Cholestyramine: ở những người khỏe mạnh bình thường đã được dùng 4 g cholestyramine ba lần một ngày trong 4 ngày sau đó dùng liều đơn 1,5 g mycophenolate mofetil, diện tích dưới đường cong của MPA giảm 40%. Nên thận trọng khi dùng cùng với các thuốc làm hạn chế vòng tái tuần hoàn gan - ruột.
Ciclosporin A: Dược động học của ciclosporin A (CsA) không bị ảnh hưởng bởi mycophenolate mofetil. Tuy nhiên, CsA ức chế tuần hoàn gan ruột của MPA, làm giảm nồng độ MPA từ 30 - 50% ở bệnh nhân ghép thận điều trị bằng Cellcept và CsA khi so sánh với bệnh nhân dùng sirolimus hay belatacept và cellcept với liều tương tự Cellcept. Ngược lại, những thay đổi về nồng độ của MPA cần được dự kiến khi chuyển sử dụng cho bệnh nhân từ CsA sang thuốc ức chế miễn dịch khác không gây ảnh hưởng lên chu trình gan ruột của MPA.
Telmisartan: Sử dụng đồng thời telmisartan và cellcept làm giảm khoảng 30% nồng độ acid mycophenolic (MPA). Telmisartan làm thay đổi sự bài tiết của MPA do kích hoạt PPAR gamma (peroxisome proliferator
kích hoạt thụ thể gamma) gây tăng hoạt động của UGT1A9. Khi so sánh tỉ lệ thải ghép, tỉ lệ hỏng tạng ghép hay các biến cố bất lợi giữa bệnh nhân sử dụng cellcept đồng thời và không đồng thời với telmisartan, không có kết luận lâm sàng nào về dược động học DDI được quan sát thấy.
Ganciclovir: Trên cơ sở kết quả nghiên cứu liều đơn của liều khuyên dùng mycophenolate mofetil đường uống và ganciclovir tiêm tĩnh mạch; và ảnh hưởng đã biết của suy thận đối với dược động học của mycophenolate mofetil và ganciclovir, khi dùng đồng thời các thuốc này (có sự cạnh tranh về cơ chế bài tiết ở ống thận) sẽ làm tăng nồng độ MPAG và ganeiclovir. Không có sự thay đổi đáng kể về dược động học của MPA và không cần điều chỉnh liều
mycophenolate mofetil. Ở những bệnh nhân suy thận dùng đồng thời mycophenolate mofetil và ganciclovir
hoặc các tiền chất của nó, ví dụ valganeiclovir, cần theo dõi bệnh nhân một cách cẩn thận.
Thuốc tránh thai đường uống: Một nghiên cứu về việc dùng cùng CellCept (1g hai lần mỗi ngày) với các thuốc tránh thai đường uống có chứa ethinylestradiol (0,02-0,04mg) và levonorgestrel (0,05-0,20mg), desogestrel (0,15mg) hoặc gestodene (0,05 - 0,10mg) được tiến hành 18 phụ nữ bị bệnh vậy nên trong 3 chu kỳ kinh đã cho thấy CellCept không làm ảnh hưởng về mặt lâm sàng đến nồng độ của progesterone, LH và FSH, vì thế CellCept không có ảnh hưởng đến tác dụng ức chế rụng trứng của các thuốc tránh thai đường uống. Dược động học của thuốc tránh thai đường uống không bị ảnh hưởng ở mức độ lâm sàng khi sử dụng đồng thời với CellCept.
Rifampicin: Sau khi điều chỉnh đúng liều, người ta vẫn quan sát thấy có sự giảm 70% nồng độ MPA (AUC0-12) khi dùng phối hợp với rifampicin ở một bệnh nhân ghép tim-phổi. Vì vậy người ta khuyên nên theo dõi sát nồng độ MPA và cần phải điều chỉnh nồng độ CellCept cho phù hợp để duy trì hiệu quả lâm sàng khi sử dụng đồng thời hai thuốc này với nhau.
Tacrolimus: Dung tacrolimus đồng thời với CellCept không làm ảnh hưởng đến diện tích dưới đường cong AUC cũng như nồng độ đỉnh Cmax của MPA ở những bệnh nhân được ghép gan. Trong một nghiên cứu gần
đây, người ta thấy điều này cũng xảy ra ở những bệnh nhân được ghép thận.
Ở những bệnh nhân được ghép thận, nồng độ tacrolimus dường như không bị thay đổi bởi CellCept.
Tuy nhiên, ở các bệnh nhân ghép gan ổn định, có hiện tượng tăng giá trị AUC của tacrolimus khoang 20% khi dùng nhiều liều Cellcept (1,5g x 2 lần/ngày) phối hợp với tacrolimus.
Các thuốc kháng sinh tiêu diệt các vi khuẩn sản xuất β-glucuronidase trong ruột (ví dụ như aminoglycoside, cephalosporin, fluoroquinolon, và kháng sinh nhóm penicillin) có thể gây ảnh hưởng lên vòng tái tuần hoàn gan ruột MPAG/MPA vì vậy dẫn đến giảm nồng độ MPA.
Thông tin liên quan đến các kháng sinh như sau:
- Ciprofloxacin hoặc amoxicillin phối hợp với clavulanic acid: Giảm 54% nồng độ MPA (trũng) trước liều đã được ghi nhận ở bệnh nhân ghép thận vào những ngày ngay sau khi bắt đầu uống ciprofloxacin và amoxicillin phối hợp với clavulanic acid. Ảnh hưởng này có xu hướng giảm bớt khi tiếp tục sử dụng kháng sinh và hết hẳn
khi ngừng sử dụng kháng sinh. Sự thay đổi nồng độ trước liều này có thể không đại diện cho nồng độ MPA toàn phần, do đó sự liên quan về mặt lâm sàng của sự thay đổi này hiện vẫn chưa rõ.
- Norfloxacin và metronidazole: Norfloxacin kết hợp với metronidazole làm giảm AUC0-48 của MPA 30% sau khi uống liều đơn CellCept. Không có tác dụng này đổi với nông độ MPA với 1 trong hai kháng sinh trên khi chúng được dùng riêng biệt.
- Trimethoprim/sulphamethoxazole: Nồng độ MPA (AUC, Cmax) không bị ảnh hưởng khi kết hợp với trimethoprim/sulfamethoxazole
Các tương tác khác: Dùng phối hợp probenecid với myeophenolate mofetil ở khi làm tăng diện tích dưới đường
cong của MPAG 3 lần. Như vậy, các thuốc khác được biết là được bài tiết qua ống thận có thê cạnh tranh với MDPAG và do đó tăng nồng độ huyết tương của MPAG hoặc các thuốc thải qua ống thận.
Dùng phối hợp sevelamer với CellCept ở người trưởng thành và ở bệnh nhân sẽ làm giảm nồng độ đỉnh Cmax của MPA khoảng 30% và làm giảm giá trị AUC0-12 của MPA khoảng 25%. Từ dữ kiện này, người ta đề nghị rằng sau khi đã dùng CellCept 2 tiếng mới nên dùng sevelamer và những thuốc calci có ái lực kết gắn với gốc phosphate tự do khác nhằm giảm thiêu tác động của những thuốc này lên sự hấp thu MPA.
Vaccine sống: Vaccine sống không nên dùng cho bệnh nhân có đáp ứng miền dịch bị suy giảm. Đáp ứng kháng thể với những vaccine khác có thể bị giảm.
9. Dược lý
Thuốc ức chế miễn dịch, ức chế enzym inosine monophosphate dehydrogenase (IMPDH).
10. Quá liều và xử trí quá liều
Những báo cáo về tình trạng quá liều mycophenolate mofetil đã được ghi nhận từ những thử nghiệm lâm sàng, và trong suốt thời gian thuốc được lưu hành trên thị trường. Trong rất nhiều trường hợp quá liều được báo cáo, không thấy có những biến cố bất lợi nào được ghi nhận. Những biến cố bất lợi được báo cáo trong những trường hợp quá liều đều đã được biết đến từ trước trong các dữ liệu về tính an toàn của thuốc.
Người ta cho rằng tình trạng quá liều của mycophenolate mofetil có thể làm ức chế quá mức hệ thống miễn
dịch, làm tăng tính nhạy cảm với nhiễm trùng và làm ức chế tủy xương. Nếu giảm bạch cầu đa nhân trung tính xảy ra thì cần ngưng hoặc giảm liều cellcept.
MPA không bị đào thải bởi lọc máu. Tuy nhiên, ở liều cao (nồng độ MPAG trong huyết tương cao hơn
100ug/ml), một lượng nhỏ MPAG bị đào thải. Các thuốc làm tăng thải acid mật như cholestyramine, có thể loại bỏ MPA bằng cách tăng đào thải thuốc.
Người ta cho rằng tình trạng quá liều của mycophenolate mofetil có thể làm ức chế quá mức hệ thống miễn
dịch, làm tăng tính nhạy cảm với nhiễm trùng và làm ức chế tủy xương. Nếu giảm bạch cầu đa nhân trung tính xảy ra thì cần ngưng hoặc giảm liều cellcept.
MPA không bị đào thải bởi lọc máu. Tuy nhiên, ở liều cao (nồng độ MPAG trong huyết tương cao hơn
100ug/ml), một lượng nhỏ MPAG bị đào thải. Các thuốc làm tăng thải acid mật như cholestyramine, có thể loại bỏ MPA bằng cách tăng đào thải thuốc.
11. Bảo quản
Giữ thuốc ở nhiệt độ dưới 25°C, bảo quản trong chính hộp thuốc gốc.