Thông tin sản phẩm
1. Thành phần của Natri clorid 0.9% & Glucose 5% Braun
Thành phần: Cứ 500 ml dung dịch chứa:
Natri Clorid 4,5 g
Glucose Monohydrate 27,5 g
Nước cất pha tiêm vđ 500 ml
Các chất điện giải: mmol/l (mEd/I)
Na+ 154
Cl- 154
Giá trị năng lượng: 850 kJ/l ~ 200 kcal/|
Nồng độ áp lực thẩm thấu: 585 mOsm/|
Natri Clorid 4,5 g
Glucose Monohydrate 27,5 g
Nước cất pha tiêm vđ 500 ml
Các chất điện giải: mmol/l (mEd/I)
Na+ 154
Cl- 154
Giá trị năng lượng: 850 kJ/l ~ 200 kcal/|
Nồng độ áp lực thẩm thấu: 585 mOsm/|
2. Công dụng của Natri clorid 0.9% & Glucose 5% Braun
- Tình trạng mất nước.
- Tình trạng suy kiệt Natri và Clorid.
- Thay thế dịch và điện giải trong nhiễm kiềm do giảm Clo huyết.
- Cung cấp năng lượng.
- Làm dung môi dẫn truyền các thuốc khác.
- Tình trạng suy kiệt Natri và Clorid.
- Thay thế dịch và điện giải trong nhiễm kiềm do giảm Clo huyết.
- Cung cấp năng lượng.
- Làm dung môi dẫn truyền các thuốc khác.
3. Liều lượng và cách dùng của Natri clorid 0.9% & Glucose 5% Braun
Liều dùng:
Khoảng 1000 ml/ngày.
Tốc độ truyền: 120 - 180 giọt/phút, tương ứng với 360 - 540 ml/giờ.
Đường dùng: Truyền tĩnh mạch.
Khoảng 1000 ml/ngày.
Tốc độ truyền: 120 - 180 giọt/phút, tương ứng với 360 - 540 ml/giờ.
Đường dùng: Truyền tĩnh mạch.
4. Chống chỉ định khi dùng Natri clorid 0.9% & Glucose 5% Braun
Tình trạng thừa nước.
Tình trạng tăng Natri.
Tình trạng giảm Kali.
Tình trạng tăng Natri.
Tình trạng giảm Kali.
5. Thận trọng khi dùng Natri clorid 0.9% & Glucose 5% Braun
Dịch truyền tĩnh mạch Natri Clorid 0,9% và Glucose 5% chỉ nên dùng một cách thận trọng trong trường hợp:
- Tăng Clo huyết.
- Bệnh đái đường
- Các rối loạn mà có chỉ định hạn chế đưa Natri vào như suy tim, phủ toàn thể, phù phổi, cao huyết áp, sản kinh, suy thận nặng.
Nồng độ Glucose-máu, cân bằng điện giải và nước cần được theo dõi thường xuyên.
Tính tương hợp của các thuốc khác pha vào dịch truyền cần được kiểm tra trước khi sử dụng.
- Tăng Clo huyết.
- Bệnh đái đường
- Các rối loạn mà có chỉ định hạn chế đưa Natri vào như suy tim, phủ toàn thể, phù phổi, cao huyết áp, sản kinh, suy thận nặng.
Nồng độ Glucose-máu, cân bằng điện giải và nước cần được theo dõi thường xuyên.
Tính tương hợp của các thuốc khác pha vào dịch truyền cần được kiểm tra trước khi sử dụng.
6. Sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai và cho con bú
Không có phản ứng bất lợi nào được báo cáo. Tuy nhiên, nồng độ đường chỉ ra rằng truyền nhanh dung dịch chứa 25 g glucose hoặc nhiều hơn dẫn đến nhiễm toan cho thai nhỉ và tăng insulin huyết, giảm glucose huyết và vàng da sơ sinh. Do đó được khuyến cáo hạn chế truyền, không vượt quá 6 g glucose trong 1 giờ ngay trước khi sinh, cho đến khi tốc độ truyền an toàn được thiết lập.
7. Khả năng lái xe và vận hành máy móc
Chưa được biết đến.
8. Tác dụng không mong muốn
Tình trạng tăng Glucose-máu và Glucose-niệu có thể xảy ra nếu khả năng dung nạp Glucose bị suy giảm. Có thể tránh được điều này bằng cách giảm liều và tốc độ truyền hoặc chỉ định dùng Insulin.
Thông báo cho bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.
Thông báo cho bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.
9. Tương tác với các thuốc khác
Tương tác thuốc: Chưa được biết đến.
Tương kỵ:
Trước khi pha thêm bất cứ thuốc nào khác vào dung dịch để truyền phải kiểm tra xem có phù hợp không. Dung dịch có tính acid có thể gây kết tủa khi pha trộn. Dung dịch chứa glucose và có pH < 6 có thể gây kết tủa indomethacin
Tương kỵ:
Trước khi pha thêm bất cứ thuốc nào khác vào dung dịch để truyền phải kiểm tra xem có phù hợp không. Dung dịch có tính acid có thể gây kết tủa khi pha trộn. Dung dịch chứa glucose và có pH < 6 có thể gây kết tủa indomethacin
10. Dược lý
Tác dụng và cơ chế tác dụng:
Glucose được hấp thu từ đường tiêu hóa, bị đốt cháy để cung cấp năng lượng cho cơ thể hoặc được dự trữ trong gan dưới dạng Glycogen. Nó là chất nền năng lượng duy nhất mà mọi tế bào của cơ thể có thể sử dụng trực tiếp ngay được. Glucose là yếu tố sống còn đối với cơ tim, não và các dây thần kinh.
Natri Clorid là loại muối chủ yếu có liên quan đến việc duy trì áp suất thẩm thấu của máu và mô. Sự thay đổi nồng độ ion Natri và ion Clorid dẫn đến thay đổi áp suất thẩm thấu và do đó ảnh hưởng đến sự vận chuyển của các chất dịch và sự khuếch tán của các muối vào các mô tế bào.
Đặc tính dược lực học:
Dung dịch chứa lượng cân xứng Natri và Clo tương ứng với nồng độ sinh lý trong huyết tương. Thêm nữa, dung dịch này có chứa 5% (kl/tt) carbohydrate dưới dạng glucose.
Natri là cation chính của khoang ngoại bào và cùng với các anion khác điều chỉnh kích cỡ của khoang này. Natri và kali là chất trung gian chính của các quá trình điện sinh học trong cơ thể.
Lượng natri và sự chuyển hóa dịch trong cơ thể có liên quan mật thiết với nhau. Mỗi sự thay đổi của nồng độ natri trong huyết thanh do thay đổi về sinh lý đồng thời ảnh hưởng đến tình trạng dịch của cơ thể.
Việc tăng lượng natri của cơ thể cũng có nghĩa là giảm lượng nước tự do trong cơ thể không phụ thuộc vào áp suất thẩm thấu huyết thanh.
Glucose được chuyển hoá ở mọi nơi như là một chất nền tự nhiên của tế bào cơ thể. Trong tình trạng sinh lý bình thường glucose là carbohydrat cung cấp năng lượng quan trọng nhất với giá trị năng lượng vào khoảng 16kJ hay 3,75 kcal/g. Mô thần kinh, hồng cầu và tuỷ thận nằm trong số những mô có nhu cầu glucose bắt buộc. Nồng độ đường trong máu được báo cáo là 50 - 95 mg/100 ml, hay 2,8 - 5,3 mmol/l (lúc đói).
Một mặt glucose giúp cho sự tổng hợp glycogen từ carbohydrat và mặt khác được thuỷ phân thành pyruvat và lactat cho việc sản xuất năng lượng trong tế bào. Glucose cũng giúp cho việc duy trì nồng độ đường trong máu và việc tổng hợp các thành phần quan trọng của cơ thể. Nó là insulin, glucagon, glucocorticoid và catecholamin chủ yếu liên quan đến việc điều chỉnh nồng độ đường trong máu.
Trạng thái bình thường của chất điện giải và cân bằng toan-kiềm là điều kiện tiên quyết để sử dụng tốt nhất lượng đường đưa vào. Do đó trong tình trạng nhiễm toan, có thể làm suy giảm việc chuyển hoá đường đã oxy hoá.
Có những mối liên quan chặt chẽ giữa các chất điện giải và chuyển hoá carbohydrat; đặc biệt là tác động của kali. Việc sử dụng glucose có liên quan đến việc tăng nhu cầu kali. Không lưu ý đến mối liên hệ này có thế dẫn đến các rối loạn đáng kể về chuyển hoá kali mà trong số đó có rối loạn nhịp tim nặng.
Rối loạn sử dụng glucose (không hấp thu glucose) có thể xảy ra trong tình trạng chuyển hóa bệnh lý. Chủ yếu trong đái tháo đường và tình trạng stress chuyển hoá (ví dụ như trong và sau phẫu thuật, bệnh nặng, chấn thương), sự suy giảm hấp thu glucose do hooc môn mà có thể dẫn đến tăng đường huyết mà không có sự cung cấp chất nền từ bên ngoài. Tăng đường huyết - tuỳ thuộc vào mức độ nặng của nó - có thể dẫn đến mất dịch qua thận do tăng áp lực thẩm thấu và tiếp theo là mất nước ưu trương, các rối loạn do tăng áp lực thẩm thấu bao gồm cả hôn mê do tăng áp lực thẩm tháu.
Dùng quá nhiều glucose, đặc biệt là trong tình trạng của hội chứng sau chấn thương có thể dẫn đến sự nặng lên đáng kể của việc suy giảm sử dụng glucose và như là kết quả của sự hạn chế việc sử dụng glucose đã oxy hoá, dẫn đến tăng chuyển đổi glucose thành lipid. Việc này tiếp theo có thể kết hợp với các vấn đề khác làm tăng lượng carbon dioxid trong cơ thể (các vấn đề với việc ngừng thở máy) và tăng thâm nhiễm chất béo của các mô đặc biệt là gan. Bệnh nhân bị chấn thương đầu và não và phù não đặc biệt có nguy cơ rối loạn điều bình glucose. Thậm chí có những rối loạn nhẹ nồng độ glucose máu và kết hợp với việc tăng áp lực thẩm thấu huyết thanh có thể dẫn đến tăng đáng kể mức độ tổn thương não.
Liều dùng thích hợp (40ml/kg thể trọng/ngày) của dung dịch có thể được sử dụng để bù đắp nhu cầu carbohydrat bắt buộc của cơ thể vào khoảng 2g glucose/kg thể trọng/ngày (liệu pháp truyền do hạ calo).
Glucose được hấp thu từ đường tiêu hóa, bị đốt cháy để cung cấp năng lượng cho cơ thể hoặc được dự trữ trong gan dưới dạng Glycogen. Nó là chất nền năng lượng duy nhất mà mọi tế bào của cơ thể có thể sử dụng trực tiếp ngay được. Glucose là yếu tố sống còn đối với cơ tim, não và các dây thần kinh.
Natri Clorid là loại muối chủ yếu có liên quan đến việc duy trì áp suất thẩm thấu của máu và mô. Sự thay đổi nồng độ ion Natri và ion Clorid dẫn đến thay đổi áp suất thẩm thấu và do đó ảnh hưởng đến sự vận chuyển của các chất dịch và sự khuếch tán của các muối vào các mô tế bào.
Đặc tính dược lực học:
Dung dịch chứa lượng cân xứng Natri và Clo tương ứng với nồng độ sinh lý trong huyết tương. Thêm nữa, dung dịch này có chứa 5% (kl/tt) carbohydrate dưới dạng glucose.
Natri là cation chính của khoang ngoại bào và cùng với các anion khác điều chỉnh kích cỡ của khoang này. Natri và kali là chất trung gian chính của các quá trình điện sinh học trong cơ thể.
Lượng natri và sự chuyển hóa dịch trong cơ thể có liên quan mật thiết với nhau. Mỗi sự thay đổi của nồng độ natri trong huyết thanh do thay đổi về sinh lý đồng thời ảnh hưởng đến tình trạng dịch của cơ thể.
Việc tăng lượng natri của cơ thể cũng có nghĩa là giảm lượng nước tự do trong cơ thể không phụ thuộc vào áp suất thẩm thấu huyết thanh.
Glucose được chuyển hoá ở mọi nơi như là một chất nền tự nhiên của tế bào cơ thể. Trong tình trạng sinh lý bình thường glucose là carbohydrat cung cấp năng lượng quan trọng nhất với giá trị năng lượng vào khoảng 16kJ hay 3,75 kcal/g. Mô thần kinh, hồng cầu và tuỷ thận nằm trong số những mô có nhu cầu glucose bắt buộc. Nồng độ đường trong máu được báo cáo là 50 - 95 mg/100 ml, hay 2,8 - 5,3 mmol/l (lúc đói).
Một mặt glucose giúp cho sự tổng hợp glycogen từ carbohydrat và mặt khác được thuỷ phân thành pyruvat và lactat cho việc sản xuất năng lượng trong tế bào. Glucose cũng giúp cho việc duy trì nồng độ đường trong máu và việc tổng hợp các thành phần quan trọng của cơ thể. Nó là insulin, glucagon, glucocorticoid và catecholamin chủ yếu liên quan đến việc điều chỉnh nồng độ đường trong máu.
Trạng thái bình thường của chất điện giải và cân bằng toan-kiềm là điều kiện tiên quyết để sử dụng tốt nhất lượng đường đưa vào. Do đó trong tình trạng nhiễm toan, có thể làm suy giảm việc chuyển hoá đường đã oxy hoá.
Có những mối liên quan chặt chẽ giữa các chất điện giải và chuyển hoá carbohydrat; đặc biệt là tác động của kali. Việc sử dụng glucose có liên quan đến việc tăng nhu cầu kali. Không lưu ý đến mối liên hệ này có thế dẫn đến các rối loạn đáng kể về chuyển hoá kali mà trong số đó có rối loạn nhịp tim nặng.
Rối loạn sử dụng glucose (không hấp thu glucose) có thể xảy ra trong tình trạng chuyển hóa bệnh lý. Chủ yếu trong đái tháo đường và tình trạng stress chuyển hoá (ví dụ như trong và sau phẫu thuật, bệnh nặng, chấn thương), sự suy giảm hấp thu glucose do hooc môn mà có thể dẫn đến tăng đường huyết mà không có sự cung cấp chất nền từ bên ngoài. Tăng đường huyết - tuỳ thuộc vào mức độ nặng của nó - có thể dẫn đến mất dịch qua thận do tăng áp lực thẩm thấu và tiếp theo là mất nước ưu trương, các rối loạn do tăng áp lực thẩm thấu bao gồm cả hôn mê do tăng áp lực thẩm tháu.
Dùng quá nhiều glucose, đặc biệt là trong tình trạng của hội chứng sau chấn thương có thể dẫn đến sự nặng lên đáng kể của việc suy giảm sử dụng glucose và như là kết quả của sự hạn chế việc sử dụng glucose đã oxy hoá, dẫn đến tăng chuyển đổi glucose thành lipid. Việc này tiếp theo có thể kết hợp với các vấn đề khác làm tăng lượng carbon dioxid trong cơ thể (các vấn đề với việc ngừng thở máy) và tăng thâm nhiễm chất béo của các mô đặc biệt là gan. Bệnh nhân bị chấn thương đầu và não và phù não đặc biệt có nguy cơ rối loạn điều bình glucose. Thậm chí có những rối loạn nhẹ nồng độ glucose máu và kết hợp với việc tăng áp lực thẩm thấu huyết thanh có thể dẫn đến tăng đáng kể mức độ tổn thương não.
Liều dùng thích hợp (40ml/kg thể trọng/ngày) của dung dịch có thể được sử dụng để bù đắp nhu cầu carbohydrat bắt buộc của cơ thể vào khoảng 2g glucose/kg thể trọng/ngày (liệu pháp truyền do hạ calo).
11. Quá liều và xử trí quá liều
Triệu chứng: Quá liều có thể dẫn đến tăng ứ nước, mất cân bằng điện giải và toan-kiềm, tăng đường huyết và tăng áp lực thẩm thấu huyết thanh.
Cách điều trị quá liều: Ngừng truyền ngay lập tức, dùng thuốc lợi tiểu và tiếp tục kiểm tra các điện giải trong huyết thanh, điều chỉnh các mất cân bằng về điện giải và toan- kiềm, có thể chỉ định dùng insulin nếu cần.
Cách điều trị quá liều: Ngừng truyền ngay lập tức, dùng thuốc lợi tiểu và tiếp tục kiểm tra các điện giải trong huyết thanh, điều chỉnh các mất cân bằng về điện giải và toan- kiềm, có thể chỉ định dùng insulin nếu cần.
12. Bảo quản
Bảo quản ở nơi khô, có nhiệt độ không quá 30°C.
Mỗi chai chỉ dùng một làn. Phần không dùng nữa phải hủy bỏ.
Dung dịch vô trùng, không có chất gây sốt.
Không được sử dụng nếu chai bị rò rỉ hoặc dung dịch không trong suốt.
Để xa tầm tay trẻ em.
Mỗi chai chỉ dùng một làn. Phần không dùng nữa phải hủy bỏ.
Dung dịch vô trùng, không có chất gây sốt.
Không được sử dụng nếu chai bị rò rỉ hoặc dung dịch không trong suốt.
Để xa tầm tay trẻ em.