Thông tin sản phẩm
1. Thành phần của Pesancidin
Hoạt chất: Acid Fusidic 2%.
Tá dược: (Polawax, Alcol cetostearyl, Alcol Cetyl, Vaselin, Propyfen glycol, Na EDTA, Nipagin, Nipasol, Cremophor, Macrogol stearat, Nước cất) vđ...1gam.
Tá dược: (Polawax, Alcol cetostearyl, Alcol Cetyl, Vaselin, Propyfen glycol, Na EDTA, Nipagin, Nipasol, Cremophor, Macrogol stearat, Nước cất) vđ...1gam.
2. Công dụng của Pesancidin
Điều trị nhiễm trùng da do tụ cầu trùng, liên cầu trùng và các vi sinh vật khác nhạy cảm với acid Fusidic. Các chỉ định quan trọng nhất bao gồm: chốc, viêm nang lông, vết thương nông, bệnh nấm do Corynebacterium minutissimum, nhọt, viêm nang râu, vết thương do chấn thương hoặc phẫu thuật, vết bỏng, cụm nhọt, viêm tuyến mồ hôi, vết loét do giãn tĩnh mạch, viêm quanh móng và trứng cá thường.
3. Liều lượng và cách dùng của Pesancidin
Dùng bôi ngoài da.
Liều dùng
Thoa một lớp mỏng kem Pesancidin lên vùng da bị bệnh, mỗi ngày 2-3 lần, tránh điều trị liên tục dài ngày, đặc biệt với vùng da mặt.
Liều dùng
Thoa một lớp mỏng kem Pesancidin lên vùng da bị bệnh, mỗi ngày 2-3 lần, tránh điều trị liên tục dài ngày, đặc biệt với vùng da mặt.
4. Chống chỉ định khi dùng Pesancidin
Thuốc Pesancidin chống chỉ định trong các trường hợp sau:
Quá mẫn với acid Fusidic.
Nhiễm trùng gây bởi các vi khuẩn không nhạy cảm, đặc biệt là Pseudomonas aeruginosa.
Quá mẫn với acid Fusidic.
Nhiễm trùng gây bởi các vi khuẩn không nhạy cảm, đặc biệt là Pseudomonas aeruginosa.
5. Thận trọng khi dùng Pesancidin
Chỉ dùng ngoài da, không bôi lên mắt, thời gian điều trị nên giới hạn trong vòng 7 ngày, ngoại trừ trường hợp điều trị mụn trứng cá, để tránh hiện tượng chọn lọc chủng vi khuẩn nhạy cảm.
6. Sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai và cho con bú
Chưa có báo cáo.
7. Khả năng lái xe và vận hành máy móc
Chưa có báo cáo.
8. Tương tác với các thuốc khác
Acid Fusidic có tác dụng đối kháng với Ciprofloxacin và tương tác phức tạp với Penicillin.
9. Dược lý
- Dược động học (Tác động của cơ thể với thuốc)
Acid Fusidic có đặc tính đồng thời thân nước và thân mỡ nên thấm rất tốt vào da, tới những lớp sâu của da và hiện diện trong tất cả các lớp mô da và dưới da.
Acid Fusidic được hấp thụ tốt từ đường tiêu hóa. Tuy nhiên, chưa biết rõ về hấp thụ thuốc khi dùng tại chỗ. Acid Fusidic được phân bố tốt vào các mô và dịch cơ thể, kể cả xương, mủ và hoạt dịch. Thuốc có thể thấm vào khối áp xe não nhưng vào được dịch não tủy với một lượng không đáng kể. Thuốc được tìm thấy trong tuần hoàn nhau thai và trong sữa mẹ. Khoảng 95% hoặc nhiều hơn lượng fusidic trong tuần hoàn được gắn với protein huyết tương.
Acid Fusidic được đào thải qua mật, hầu hết dưới dạng chuyển hóa, một số có hoạt tính kháng sinh yếu. Khoảng 2% đào thải ra phân dưới dạng không chuyển hóa. Một lượng nhỏ đào thải ra nước tiểu hoặc được loại bỏ bằng thẩm phân máu.
- Dược lực học (Tác động của thuốc lên cơ thể)
Acid Fusidic là kháng sinh được chiết xuất từ nấm Fuisidium coccineum. Acid Fusidic có tác dụng với vi khuẩn Gr(+) như tụ cầu và Corynebacterium.
Acid Fusidic ức chế sinh tổng hợp protein của vi khuẩn nhưng ngược với các kháng sinh khác như macrolid hay tetracyclin, thuốc không gắn với ribosom của vi khuẩn mà ức chế một yếu tố cần thiết cho việc vận chuyển các tiểu đơn vị peptid và kéo dài chuỗi peptid. Thuốc có khả năng ức chế sinh tổng hợp protein ở tế bào ở động vật có vú nhưng lại có tác động chọn lọc trên các vi khuẩn gây bệnh nhạy cảm do thuốc khó đi vào tế bào chủ.
Acid Fusidic rất có hiệu quả để chống lại Staphylococci, đặc biệt là S. aureus và S. epidermis, Nocardia asteroides và nhiều chủng Clostridial cũng rất nhạy cảm với thuốc. Streptococci và Enterococci kém nhạy cảm hơn.
Acid Fusidic có đặc tính đồng thời thân nước và thân mỡ nên thấm rất tốt vào da, tới những lớp sâu của da và hiện diện trong tất cả các lớp mô da và dưới da.
Acid Fusidic được hấp thụ tốt từ đường tiêu hóa. Tuy nhiên, chưa biết rõ về hấp thụ thuốc khi dùng tại chỗ. Acid Fusidic được phân bố tốt vào các mô và dịch cơ thể, kể cả xương, mủ và hoạt dịch. Thuốc có thể thấm vào khối áp xe não nhưng vào được dịch não tủy với một lượng không đáng kể. Thuốc được tìm thấy trong tuần hoàn nhau thai và trong sữa mẹ. Khoảng 95% hoặc nhiều hơn lượng fusidic trong tuần hoàn được gắn với protein huyết tương.
Acid Fusidic được đào thải qua mật, hầu hết dưới dạng chuyển hóa, một số có hoạt tính kháng sinh yếu. Khoảng 2% đào thải ra phân dưới dạng không chuyển hóa. Một lượng nhỏ đào thải ra nước tiểu hoặc được loại bỏ bằng thẩm phân máu.
- Dược lực học (Tác động của thuốc lên cơ thể)
Acid Fusidic là kháng sinh được chiết xuất từ nấm Fuisidium coccineum. Acid Fusidic có tác dụng với vi khuẩn Gr(+) như tụ cầu và Corynebacterium.
Acid Fusidic ức chế sinh tổng hợp protein của vi khuẩn nhưng ngược với các kháng sinh khác như macrolid hay tetracyclin, thuốc không gắn với ribosom của vi khuẩn mà ức chế một yếu tố cần thiết cho việc vận chuyển các tiểu đơn vị peptid và kéo dài chuỗi peptid. Thuốc có khả năng ức chế sinh tổng hợp protein ở tế bào ở động vật có vú nhưng lại có tác động chọn lọc trên các vi khuẩn gây bệnh nhạy cảm do thuốc khó đi vào tế bào chủ.
Acid Fusidic rất có hiệu quả để chống lại Staphylococci, đặc biệt là S. aureus và S. epidermis, Nocardia asteroides và nhiều chủng Clostridial cũng rất nhạy cảm với thuốc. Streptococci và Enterococci kém nhạy cảm hơn.
10. Bảo quản
Bảo quản thuốc nơi khô, nhiệt độ không quá 30 độ C, tránh ánh sáng.