Dược sĩ Mai Thị Thanh Huyền
Đã duyệt nội dung
Dược sĩ Mai Thị Thanh Huyền
Đã duyệt nội dung
Thông tin sản phẩm
1. Thành phần của RIVAXORED 10MG
Rivaroxaban 10mg.
2. Công dụng của RIVAXORED 10MG
Thuốc Rivaxored chỉ định điều trị trong trường hợp phòng ngừa thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE) ở bệnh nhân người lớn phẫu thuật theo chương trình thay thế khớp háng hay khớp gối.
3. Liều lượng và cách dùng của RIVAXORED 10MG
Cách dùng
Thuốc Rivaxored 10mg dạng viên nén bao phim dùng qua đường uống. Thuốc có thể dùng cùng hoặc không cùng với thức ăn.
Đối với trường hợp bệnh nhân không thể nuốt nguyên viên thuốc, có thể nghiền ra và trộn với nước hay thức ăn mềm như nước sốt táo ngay trước khi ăn hay uống.
Ngoài ra, viên Rivaroxaban được nghiền ra có thể cho qua ống thông dạ dày sau khi xác định đúng vị trí đặt ống thông ở dạ dày. Viên thuốc nghiền ra phải được cho vào một lượng nước nhỏ đổ qua ống thông, sau đó dội thêm nước.
Liều dùng
Liều dùng thông thường trong phòng ngừa thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE) ở bệnh nhân người lớn:
+ Liều khuyến cáo là 10 mg Rivaroxaban uống mỗi ngày một lần. Liều khởi đầu nên được dùng trong vòng 6-10 giờ sau phẫu thuật, với điều kiện tình trạng cầm máu đã được thiết lập.
+ Thời gian điều trị phụ thuộc vào nguy cơ huyết khối tĩnh mạch của từng cá nhân bệnh nhân xác định bởi loại phẫu thuật chỉnh hình.
+ Đối với bệnh nhân trải qua đại phẫu khớp háng, thời gian điều trị khuyến cáo là 5 tuần.
+ Đối với các bệnh nhân trải qua đại phẫu khớp gối, thời gian điều trị khuyến cáo là 2 tuần.
Liều dùng thông thường trong phòng ngừa đột quỵ và tắc mạch hệ thống:
+ Liều khuyến cáo là 20 mg mỗi ngày một lần, đây cũng là liều tối đa được khuyến cáo.
+ Khi bệnh nhân điều trị với Rivaroxaban nên được duy trì lâu dài sẽ cho các lợi ích về phòng ngừa đột quỵ và tắc mạch hệ thống lớn hơn nguy cơ chảy máu.
Liều dùng thông thường trong điều trị DVT, điều trị PE và phòng ngừa tái phát DVT và PE:
Liều khuyến cáo cho điều trị ban đầu DVT cấp tính hoặc PE là 15 mg hai lần mỗi ngày trong ba tuần đầu tiên, sau đó là 20 mg mỗi ngày một lần để điều trị tiếp và phòng ngừa tái phát DVT và PE, được chỉ ra trong bảng dưới đây.
Ngày 1 – 21: Liều dùng 15 mg x ngày 2 lần, liều tối đa 30 mg.
Ngày thứ 22 trở đi: Liều dùng 20 mg x ngày 1 lần, liều tối đa 20 mg.
Thời gian điều trị nên được cá nhân hóa sau khi đánh giá cẩn thận về lợi ích điều trị chống lại nguy cơ xuất huyết. Thời gian điều trị ngắn (ít nhất là 3 tháng) nên được dựa trên các yếu tố nguy cơ tạm thời (ví dụ mới phẫu thuật gần đây, chấn thương, bất động) và thời gian dài hơn nên dựa vào các yếu tố nguy cơ thường trực hay DVT vô căn hoặc PE.
Nếu quên một liều trong giai đoạn điều trị mỗi ngày hai lần liều 15 mg (ngày 1-21), bệnh nhân nên uống Rivaroxaban ngay khi nhớ ra để đảm bảo lượng 30 mg Rivaroxaban mỗi ngày. Trong trường hợp này, có thể uống hai viên nén 15 mg cùng một lúc. Bệnh nhân nên tiếp tục uống đều đặn hai lần mỗi ngày liều 15 mg vào ngày tiếp theo như đã khuyến cáo.
Nếu quên một liều trong giai đoạn điều trị một lần mỗi ngày (ngày 22 trở đi), bệnh nhân nên uống Rivaroxaban ngay khi nhớ ra và tiếp tục uống mỗi ngày một lần vào ngày hôm sau như đã khuyến cáo. Không nên tăng liều gấp đôi trong cùng một ngày để bù cho một liều đã quên.
Trường hợp chuyển đổi từ các chất đối kháng vitamin K (VKA) sang Rivaroxaban:
+ Khi bệnh nhân chuyển đổi từ VKA sang Rivaroxaban, các giá trị INR sẽ tăng giả tạo sau khi uống Rivaroxaban.
+ INR này không có giá trị để đo hoạt tính chống đông của Rivaroxaban, và vì vậy, không nên sử dụng.
Trường hợp chuyển đổi từ Rivaroxaban sang các chất đối kháng vitamin K (VKA):
Trong quá trình chuyển đổi từ Rivaroxaban sang VKA, có thể xảy ra tình trạng kháng đông không đầy đủ. Cần đảm bảo tình trạng kháng đông đầy đủ, liên tục trong bất kỳ quá trình chuyển đổi sang thuốc kháng đông thay thế. Cần lưu ý rằng Rivaroxaban có thể góp phần vào việc làm cho giá trị INR tăng lên.
Đối với các bệnh nhân chuyển đổi từ Rivaroxaban sang VKA, thì nên dùng đồng thời VKA cho tới khi INR ≥ 2,0. Trong hai ngày đầu của thời gian chuyển đổi, nên sử dụng liều VKA tiêu chuẩn, tiếp đến là liều VKA dựa trên xét nghiệm INR.
Trong trường hợp bệnh nhân dùng cả Rivaroxaban và VKA, thì không nên xét nghiệm INR trước 24 h sau liều dùng Rivaroxaban trước đó nhưng trước liều dùng Rivaroxaban tiếp theo. Một khi Rivaroxaban bị gián đoạn, có thể tiến hành xét nghiệm INR với mức độ đáng tin cậy trong 24 giờ sau liều dùng cuối cùng.
Trường hợp chuyển đổi từ các thuốc kháng đông dạng tiêm sang Rivaroxaban:
Đối với bệnh nhân hiện đang dùng thuốc chống đông máu đường tiêm, bắt đầu dùng Rivaroxaban 0 đến 2 giờ trước thời gian dùng của thuốc tiêm tiếp theo (ví dụ như heparin trọng lượng phân tử thấp) hoặc tại thời điểm ngừng của một loại thuốc tiêm sử dụng liên tục (ví dụ như tiêm tĩnh mạch heparin không phân đoạn).
Trường hợp chuyển đổi từ Rivaroxaban sang các thuốc kháng đông dạng tiêm:
Dùng liều đầu tiên thuốc kháng đông đường tiêm vào thời gian mà đáng lẽ sẽ dùng liều Rivaroxaban tiếp theo.
Liều dùng cho bệnh nhân đặc biệt:
Bệnh nhân suy giảm chức năng thận:
Dữ liệu lâm sàng hạn chế trên những bệnh nhân suy thận nặng (độ thanh thải creatinine 15 – 29 ml/phút) cho thấy nồng độ Rivaroxaban huyết tương tăng đáng kể. Vì vậy, nên thận trọng dùng Rivaroxaban cho những bệnh nhân này. Không khuyến cáo sử dụng ở những bệnh nhân có độ thanh thải creatinine < 15 ml/phút.
Ở bệnh nhân suy thận mức độ trung bình (độ thanh thải creatinine 30 - 49 ml/phút) hoặc nặng (độ thanh thải creatinine 15 - 29 ml/phút), khuyến cáo áp dụng các liều sau đây:
+ Để phòng ngừa đột quỵ và tắc mạch hệ thống ở bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim, liều khuyến cáo là 15 mg mỗi ngày một lần.
+ Để điều trị DVT, điều trị PE và phòng ngừa tái phát DVT và PE: Bệnh nhân cần được điều trị với liều 15 mg hai lần mỗi ngày trong 3 tuần đầu tiên.
Sau đó, liều khuyến cáo là 20 mg mỗi ngày một lần. Nên xem xét giảm liều từ 20 mg một lần mỗi ngày xuống 15 mg mỗi ngày một lần nếu đánh giá nguy cơ chảy máu của bệnh nhân không cao hơn nguy cơ tái phát DVT và PE. Khuyến cáo sử dụng 15 mg dựa trên mô hình PK và chưa được nghiên cứu trong bối cảnh lâm sàng này.
Không cần điều chỉnh liều ở những bệnh nhân suy thận nhẹ (độ thanh thải creatinine 50 – 80 ml/phút).
Bệnh nhân suy giảm chức năng gan:
Chống chỉ định Rivaroxaban ở các bệnh nhân mắc bệnh gan đi kèm với bệnh đông máu và nguy cơ chảy máu có liên quan về mặt lâm sàng bao gồm những bệnh nhân xơ gan với xếp loại Child Pugh B và C.
Trẻ em:
Chưa xác định được hiệu quả và tính an toàn của Rivaroxaban cho trẻ em dưới 18 tuổi. Không có dữ liệu. Do vậy, không nên dùng Rivaroxaban cho trẻ dưới 18 tuổi.
Bệnh nhân trải qua đảo nhịp tim
Rivaroxaban có thể được bắt đầu hoặc tiếp tục dùng ở những bệnh nhân trải qua đảo nhịp tim.
Đối với siêu âm tim qua thực quản (TEE) hướng dẫn đảo nhịp tim ở những bệnh nhân không được điều trị thuốc chống đông máu trước đó, điều trị Rivaroxaban nên được bắt đầu ít nhất 4 giờ trước khi đảo nhịp tim để đảm bảo đủ thuốc chống đông máu.
Đối với tất cả các bệnh nhân, phải xác nhận trước khi đảo nhịp tim rằng bệnh nhân đã dùng Rivaroxaban như đã kê đơn.
Quyết định về việc bắt đầu và thời gian điều trị cần xem xét đến khuyến cáo trong hướng dẫn đã được thiết lập đối với việc điều trị bằng thuốc chống đông máu ở bệnh nhân trải qua đảo nhịp tim.
Lưu ý: Liều dùng trên chỉ mang tính chất tham khảo. Liều dùng cụ thể tùy thuộc vào thể trạng và mức độ diễn tiến của bệnh. Để có liều dùng phù hợp, bạn cần tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc chuyên viên y tế.
Thuốc Rivaxored 10mg dạng viên nén bao phim dùng qua đường uống. Thuốc có thể dùng cùng hoặc không cùng với thức ăn.
Đối với trường hợp bệnh nhân không thể nuốt nguyên viên thuốc, có thể nghiền ra và trộn với nước hay thức ăn mềm như nước sốt táo ngay trước khi ăn hay uống.
Ngoài ra, viên Rivaroxaban được nghiền ra có thể cho qua ống thông dạ dày sau khi xác định đúng vị trí đặt ống thông ở dạ dày. Viên thuốc nghiền ra phải được cho vào một lượng nước nhỏ đổ qua ống thông, sau đó dội thêm nước.
Liều dùng
Liều dùng thông thường trong phòng ngừa thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE) ở bệnh nhân người lớn:
+ Liều khuyến cáo là 10 mg Rivaroxaban uống mỗi ngày một lần. Liều khởi đầu nên được dùng trong vòng 6-10 giờ sau phẫu thuật, với điều kiện tình trạng cầm máu đã được thiết lập.
+ Thời gian điều trị phụ thuộc vào nguy cơ huyết khối tĩnh mạch của từng cá nhân bệnh nhân xác định bởi loại phẫu thuật chỉnh hình.
+ Đối với bệnh nhân trải qua đại phẫu khớp háng, thời gian điều trị khuyến cáo là 5 tuần.
+ Đối với các bệnh nhân trải qua đại phẫu khớp gối, thời gian điều trị khuyến cáo là 2 tuần.
Liều dùng thông thường trong phòng ngừa đột quỵ và tắc mạch hệ thống:
+ Liều khuyến cáo là 20 mg mỗi ngày một lần, đây cũng là liều tối đa được khuyến cáo.
+ Khi bệnh nhân điều trị với Rivaroxaban nên được duy trì lâu dài sẽ cho các lợi ích về phòng ngừa đột quỵ và tắc mạch hệ thống lớn hơn nguy cơ chảy máu.
Liều dùng thông thường trong điều trị DVT, điều trị PE và phòng ngừa tái phát DVT và PE:
Liều khuyến cáo cho điều trị ban đầu DVT cấp tính hoặc PE là 15 mg hai lần mỗi ngày trong ba tuần đầu tiên, sau đó là 20 mg mỗi ngày một lần để điều trị tiếp và phòng ngừa tái phát DVT và PE, được chỉ ra trong bảng dưới đây.
Ngày 1 – 21: Liều dùng 15 mg x ngày 2 lần, liều tối đa 30 mg.
Ngày thứ 22 trở đi: Liều dùng 20 mg x ngày 1 lần, liều tối đa 20 mg.
Thời gian điều trị nên được cá nhân hóa sau khi đánh giá cẩn thận về lợi ích điều trị chống lại nguy cơ xuất huyết. Thời gian điều trị ngắn (ít nhất là 3 tháng) nên được dựa trên các yếu tố nguy cơ tạm thời (ví dụ mới phẫu thuật gần đây, chấn thương, bất động) và thời gian dài hơn nên dựa vào các yếu tố nguy cơ thường trực hay DVT vô căn hoặc PE.
Nếu quên một liều trong giai đoạn điều trị mỗi ngày hai lần liều 15 mg (ngày 1-21), bệnh nhân nên uống Rivaroxaban ngay khi nhớ ra để đảm bảo lượng 30 mg Rivaroxaban mỗi ngày. Trong trường hợp này, có thể uống hai viên nén 15 mg cùng một lúc. Bệnh nhân nên tiếp tục uống đều đặn hai lần mỗi ngày liều 15 mg vào ngày tiếp theo như đã khuyến cáo.
Nếu quên một liều trong giai đoạn điều trị một lần mỗi ngày (ngày 22 trở đi), bệnh nhân nên uống Rivaroxaban ngay khi nhớ ra và tiếp tục uống mỗi ngày một lần vào ngày hôm sau như đã khuyến cáo. Không nên tăng liều gấp đôi trong cùng một ngày để bù cho một liều đã quên.
Trường hợp chuyển đổi từ các chất đối kháng vitamin K (VKA) sang Rivaroxaban:
+ Khi bệnh nhân chuyển đổi từ VKA sang Rivaroxaban, các giá trị INR sẽ tăng giả tạo sau khi uống Rivaroxaban.
+ INR này không có giá trị để đo hoạt tính chống đông của Rivaroxaban, và vì vậy, không nên sử dụng.
Trường hợp chuyển đổi từ Rivaroxaban sang các chất đối kháng vitamin K (VKA):
Trong quá trình chuyển đổi từ Rivaroxaban sang VKA, có thể xảy ra tình trạng kháng đông không đầy đủ. Cần đảm bảo tình trạng kháng đông đầy đủ, liên tục trong bất kỳ quá trình chuyển đổi sang thuốc kháng đông thay thế. Cần lưu ý rằng Rivaroxaban có thể góp phần vào việc làm cho giá trị INR tăng lên.
Đối với các bệnh nhân chuyển đổi từ Rivaroxaban sang VKA, thì nên dùng đồng thời VKA cho tới khi INR ≥ 2,0. Trong hai ngày đầu của thời gian chuyển đổi, nên sử dụng liều VKA tiêu chuẩn, tiếp đến là liều VKA dựa trên xét nghiệm INR.
Trong trường hợp bệnh nhân dùng cả Rivaroxaban và VKA, thì không nên xét nghiệm INR trước 24 h sau liều dùng Rivaroxaban trước đó nhưng trước liều dùng Rivaroxaban tiếp theo. Một khi Rivaroxaban bị gián đoạn, có thể tiến hành xét nghiệm INR với mức độ đáng tin cậy trong 24 giờ sau liều dùng cuối cùng.
Trường hợp chuyển đổi từ các thuốc kháng đông dạng tiêm sang Rivaroxaban:
Đối với bệnh nhân hiện đang dùng thuốc chống đông máu đường tiêm, bắt đầu dùng Rivaroxaban 0 đến 2 giờ trước thời gian dùng của thuốc tiêm tiếp theo (ví dụ như heparin trọng lượng phân tử thấp) hoặc tại thời điểm ngừng của một loại thuốc tiêm sử dụng liên tục (ví dụ như tiêm tĩnh mạch heparin không phân đoạn).
Trường hợp chuyển đổi từ Rivaroxaban sang các thuốc kháng đông dạng tiêm:
Dùng liều đầu tiên thuốc kháng đông đường tiêm vào thời gian mà đáng lẽ sẽ dùng liều Rivaroxaban tiếp theo.
Liều dùng cho bệnh nhân đặc biệt:
Bệnh nhân suy giảm chức năng thận:
Dữ liệu lâm sàng hạn chế trên những bệnh nhân suy thận nặng (độ thanh thải creatinine 15 – 29 ml/phút) cho thấy nồng độ Rivaroxaban huyết tương tăng đáng kể. Vì vậy, nên thận trọng dùng Rivaroxaban cho những bệnh nhân này. Không khuyến cáo sử dụng ở những bệnh nhân có độ thanh thải creatinine < 15 ml/phút.
Ở bệnh nhân suy thận mức độ trung bình (độ thanh thải creatinine 30 - 49 ml/phút) hoặc nặng (độ thanh thải creatinine 15 - 29 ml/phút), khuyến cáo áp dụng các liều sau đây:
+ Để phòng ngừa đột quỵ và tắc mạch hệ thống ở bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim, liều khuyến cáo là 15 mg mỗi ngày một lần.
+ Để điều trị DVT, điều trị PE và phòng ngừa tái phát DVT và PE: Bệnh nhân cần được điều trị với liều 15 mg hai lần mỗi ngày trong 3 tuần đầu tiên.
Sau đó, liều khuyến cáo là 20 mg mỗi ngày một lần. Nên xem xét giảm liều từ 20 mg một lần mỗi ngày xuống 15 mg mỗi ngày một lần nếu đánh giá nguy cơ chảy máu của bệnh nhân không cao hơn nguy cơ tái phát DVT và PE. Khuyến cáo sử dụng 15 mg dựa trên mô hình PK và chưa được nghiên cứu trong bối cảnh lâm sàng này.
Không cần điều chỉnh liều ở những bệnh nhân suy thận nhẹ (độ thanh thải creatinine 50 – 80 ml/phút).
Bệnh nhân suy giảm chức năng gan:
Chống chỉ định Rivaroxaban ở các bệnh nhân mắc bệnh gan đi kèm với bệnh đông máu và nguy cơ chảy máu có liên quan về mặt lâm sàng bao gồm những bệnh nhân xơ gan với xếp loại Child Pugh B và C.
Trẻ em:
Chưa xác định được hiệu quả và tính an toàn của Rivaroxaban cho trẻ em dưới 18 tuổi. Không có dữ liệu. Do vậy, không nên dùng Rivaroxaban cho trẻ dưới 18 tuổi.
Bệnh nhân trải qua đảo nhịp tim
Rivaroxaban có thể được bắt đầu hoặc tiếp tục dùng ở những bệnh nhân trải qua đảo nhịp tim.
Đối với siêu âm tim qua thực quản (TEE) hướng dẫn đảo nhịp tim ở những bệnh nhân không được điều trị thuốc chống đông máu trước đó, điều trị Rivaroxaban nên được bắt đầu ít nhất 4 giờ trước khi đảo nhịp tim để đảm bảo đủ thuốc chống đông máu.
Đối với tất cả các bệnh nhân, phải xác nhận trước khi đảo nhịp tim rằng bệnh nhân đã dùng Rivaroxaban như đã kê đơn.
Quyết định về việc bắt đầu và thời gian điều trị cần xem xét đến khuyến cáo trong hướng dẫn đã được thiết lập đối với việc điều trị bằng thuốc chống đông máu ở bệnh nhân trải qua đảo nhịp tim.
Lưu ý: Liều dùng trên chỉ mang tính chất tham khảo. Liều dùng cụ thể tùy thuộc vào thể trạng và mức độ diễn tiến của bệnh. Để có liều dùng phù hợp, bạn cần tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc chuyên viên y tế.
4. Chống chỉ định khi dùng RIVAXORED 10MG
Bệnh nhân quá mẫn với Rivaroxaban hoặc bất cứ tá dược nào của thuốc.
Người bệnh đang chảy máu nghiêm trọng trên lâm sàng.
Có tổn thương hoặc có bệnh lý, nếu được xem là một nguy cơ chảy máu nghiêm trọng. Điều này có thể bao gồm loét đường tiêu hóa hiện tại hoặc gần đây, xuất hiện khối u ác tính với nguy cơ chảy máu cao, gần đây có tổn thương não hoặc cột sống, gần đây có phẫu thuật não, cột sống hoặc mắt, xuất huyết nội sọ gần đây, được biết hoặc nghi ngờ giãn tĩnh mạch thực quản, dị dạng động tĩnh mạch, phình mạch máu hoặc các bất thường mạch máu lớn trong cột sống hoặc nội sọ.
Dùng phối hợp với các thuốc chống đông như heparins không phân đoạn (UFH), heparin trọng lượng phân tử thấp (Enoxaparin, Dalteparin, vv...), các dẫn xuất heparin (Fondaparinux, vv...), thuốc chống đông dạng uống (Warfarin, Dabigatran Etexalate, Apixaban, vv...), trừ các trường hợp đặc biệt trong liệu trình chuyển đổi thuốc kháng đông hoặc khi UFH được sử dụng ở liều cần thiết để duy trì catheter động mạch hoặc tĩnh mạch trung tâm mở.
Mắc bệnh gan đi kèm với rối loạn đông máu và nguy cơ chảy máu có liên quan về mặt lâm sàng bao gồm những bệnh nhân xơ gan với xếp loại Child Pugh B và C.
Phụ nữ có thai và cho con bú.
Người bệnh đang chảy máu nghiêm trọng trên lâm sàng.
Có tổn thương hoặc có bệnh lý, nếu được xem là một nguy cơ chảy máu nghiêm trọng. Điều này có thể bao gồm loét đường tiêu hóa hiện tại hoặc gần đây, xuất hiện khối u ác tính với nguy cơ chảy máu cao, gần đây có tổn thương não hoặc cột sống, gần đây có phẫu thuật não, cột sống hoặc mắt, xuất huyết nội sọ gần đây, được biết hoặc nghi ngờ giãn tĩnh mạch thực quản, dị dạng động tĩnh mạch, phình mạch máu hoặc các bất thường mạch máu lớn trong cột sống hoặc nội sọ.
Dùng phối hợp với các thuốc chống đông như heparins không phân đoạn (UFH), heparin trọng lượng phân tử thấp (Enoxaparin, Dalteparin, vv...), các dẫn xuất heparin (Fondaparinux, vv...), thuốc chống đông dạng uống (Warfarin, Dabigatran Etexalate, Apixaban, vv...), trừ các trường hợp đặc biệt trong liệu trình chuyển đổi thuốc kháng đông hoặc khi UFH được sử dụng ở liều cần thiết để duy trì catheter động mạch hoặc tĩnh mạch trung tâm mở.
Mắc bệnh gan đi kèm với rối loạn đông máu và nguy cơ chảy máu có liên quan về mặt lâm sàng bao gồm những bệnh nhân xơ gan với xếp loại Child Pugh B và C.
Phụ nữ có thai và cho con bú.
5. Thận trọng khi dùng RIVAXORED 10MG
Cần rất thận trọng khi dùng thuốc cho người bệnh trong các trường hợp sau đây:
Tính an toàn và hiệu quả của Rivaroxaban đã được nghiên cứu kết hợp với các thuốc kháng tiểu cầu aspirin và clopidogrel hoặc ticlopidine. Điều trị kết hợp với thuốc kháng tiểu cầu khác, ví dụ Prasugrel hoặc Ticagrelor, chưa được nghiên cứu và không được khuyến cáo.
Giám sát lâm sàng phù hợp với thực hành các thuốc kháng đông được khuyến cáo trong suốt thời gian điều trị.
Nguy cơ chảy máu:
Cũng giống như các thuốc chống huyết khối khác, Rivaroxaban cần được sử dụng thận trọng ở bệnh nhân có các dấu hiệu chảy máu. Khuyến cáo sử dụng thận trọng nếu có tăng nguy cơ chảy máu. Nên ngưng dùng Rivaroxaban nếu xuất huyết nghiêm trọng xảy ra.
Trong các nghiên cứu lâm sàng về chảy máu niêm mạc (nghĩa là chảy máu cam, nướu, tiêu hóa, tiết niệu - sinh dục) và thiếu máu đã xuất hiện thường xuyên hơn trong khi điều trị Rivaroxaban lâu dài vào đầu liệu pháp kháng tiểu cầu đơn hoặc kép. Vì vậy, ngoài việc giám sát lâm sàng thích hợp, xét nghiệm hemoglobin/hematocrit có thể có giá trị phát hiện chảy máu ẩn, được đánh giá là phù hợp.
Một số phân nhóm bệnh nhân, như chi tiết dưới đây, có nhiều nguy cơ chảy máu. Do đó, việc sử dụng Rivaroxaban kết hợp với điều trị kháng tiểu cầu kép ở những bệnh nhân có nguy cơ chảy máu cao đã được biết đến nên được cân bằng với những lợi ích về mặt phòng ngừa các biến cố huyết khối do xơ vữa động mạch.
Ngoài những bệnh nhân phải được theo dõi cẩn thận các dấu hiệu và triệu chứng của biến chứng chảy máu và thiếu máu sau khi bắt đầu điều trị.
Bất kỳ một sự tụt giảm hemoglobin hay huyết áp nào không giải thích được cần nghĩ đến việc tìm kiếm vị trí chảy máu.
Mặc dù điều trị với Rivaroxaban không yêu cầu giám sát thường xuyên sự phơi nhiễm, mức Rivaroxaban được đo với một xét nghiệm hiệu chuẩn định lượng kháng yếu tố Xa có thể hữu ích trong các tình huống đặc biệt, khi kiến thức về phơi nhiễm Rivaroxaban có thể giúp ra các quyết định lâm sàng, ví dụ, quá liều và phẫu thuật khẩn cấp.
Bệnh nhân suy thận:
Ở bệnh nhân suy thận nặng (độ thanh thải creatinin < 30 mL/phút), nồng độ Rivaroxaban trong huyết tương có thể tăng lên đáng kể (trung bình gấp 1,6 lần), dẫn tới tăng nguy cơ chảy máu. Sử dụng Rivaroxaban thận trọng ở những bệnh nhân có độ thanh thải creatinin 15 - 20 mL/phút. Không khuyến cáo dùng cho những bệnh nhân có độ thanh thải creatinin <15 mL/phút.
Sử dụng Rivaroxaban thận trọng ở những bệnh nhân bị suy thận vừa (độ thanh thải creatinine 30 - 49 mL/phút) dùng đồng thời với các thuốc khác làm tăng nồng độ Rivaroxaban trong huyết tương.
Tương tác với các thuốc khác:
Không khuyến cáo sử dụng Rivaroxaban cho các bệnh nhân đang sử dụng thuốc chống nấm nhóm azole (như Ketoconazole, Itraconazole, Voriconazole và Posaconazole) hoặc các thuốc chống HIV ức chế protease (ví dụ Ritonavir). Các thuốc này ức chế mạnh cả CYP3A4 và P-gp. Vì vậy có thể làm tăng nồng độ Rivaroxaban trong huyết tương (trung bình cao gấp khoảng 2,6 lần) tới mức có thể gây tăng nguy cơ chảy máu trên lâm sàng.
Cần thận trọng ở bệnh nhân dùng đồng thời thuốc ảnh hưởng tới sự cầm máu như các thuốc chống viêm không steroid (NSAID), Acid acetylsalicylic (ASA) và thuốc chống kết tập tiểu cầu. Đối với những bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh loét đường tiêu hóa nên xem xét đến điều trị phòng ngừa thích hợp.
Các yếu tố nguy cơ chảy máu khác:
Cũng giống như các thuốc chống huyết khối khác, Rivaroxaban cần được sử dụng thận trọng ở bệnh nhân có tăng các nguy cơ chảy máu như:
+ Rối loạn chảy máu bẩm sinh hoặc mắc phải.
+ Tăng huyết áp động mạch nghiêm trọng không kiểm soát được.
+ Bệnh tiêu hóa khác mà không có loét tiến triển có khả năng dẫn đến biến chứng xuất huyết (ví dụ: Bệnh viêm đường ruột, viêm thực quản, viêm dạ dày và bệnh trào ngược dạ dày).
+ Bệnh mạch võng mạc do mạch máu.
+ Chứng giãn phế quản hoặc tiền sử xuất huyết phổi.
Phẫu thuật gãy xương khớp háng:
Rivaroxaban chưa được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng can thiệp ở bệnh nhân trải qua phẫu thuật gãy xương khớp háng để đánh giá tính an toàn và hiệu quả.
Bệnh nhân có van tim giả:
Tính an toàn và hiệu quả của Rivaroxaban chưa được nghiên cứu ở bệnh nhân có van tim giả; do đó, không có dữ liệu để chứng minh rằng Rivaroxaban 20 mg (15 mg ở bệnh nhân suy thận trung bình hoặc nặng) cung cấp thuốc kháng đông thỏa đáng trong nhóm bệnh nhân này. Không khuyến cáo điều trị bằng Rivaroxaban cho những bệnh nhân này.
Bệnh nhân PE không ổn định về huyết động lực hoặc bệnh nhân cần làm tan huyết khối hoặc thủ thuật cắt bỏ vật nghẽn mạch phổi:
Rivaroxaban không được khuyến cáo như là một sự thay thế cho heparin không phân đoạn ở bệnh nhân tắc mạch phổi không ổn định về huyết động lực hoặc có thể được làm tan huyết khối hoặc làm thủ thuật cắt bỏ vật nghẽn mạch phổi vì tính an toàn và hiệu quả của Rivaroxaban chưa được thiết lập trong các tình huống lâm sàng.
Gây mê ngoài màng cứng/ tủy sống hoặc chọc dò tủy sống:
Khi tiến hành gây mê trục thần kinh não tủy (ngoài màng cứng/tủy sống) hoặc chọc dò tủy sống ở bệnh nhân có sử dụng thuốc chống huyết khối để dự phòng biến chứng thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch sẽ có nguy cơ bị khối máu tụ ở tủy sống hoặc ngoài màng cứng dẫn tới chứng liệt kéo dài.
Nguy cơ của các biến chứng này thậm chí còn tăng lên khi đặt catheter ngoài màng cứng hoặc sử dụng đồng thời với các thuốc có ảnh hưởng tới sự cầm máu. Nguy cơ cũng tăng lên khi bị chấn thương hoặc chọc dò lặp lại tủy sống/ngoài màng cứng.
Cần thường xuyên theo dõi ở bệnh nhân những dấu hiệu và triệu chứng suy giảm thần kinh (ví dụ như tê hoặc yếu chân, rối loạn chức năng bàng quang và đại tràng). Nếu phát hiện có suy giảm thần kinh, cần chẩn đoán và điều trị kịp thời ngay cho bệnh nhân.
Bác sĩ cần cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ trước khi can thiệp vào trục thần kinh não tủy ở bệnh nhân có dùng thuốc chống đông hoặc phải dùng thuốc chống đông để ngăn ngừa huyết khối.
Để giảm nguy cơ tiềm ẩn của chảy máu kết hợp với việc sử dụng đồng thời của Rivaroxaban và gây mê trục thần kinh não tủy (ngoài màng cứng/tủy sống) hoặc chọc dò tủy sống, hãy xem xét hồ sơ dược động học của Rivaroxaban.
Đặt hoặc rút catheter ngoài màng cứng hoặc chọc dò tủy sống được thực hiện tốt nhất khi tác dụng kháng đông của Rivaroxaban được ước tính là thấp. Tuy nhiên, thời gian chính xác để đạt được một tác dụng kháng đông đủ thấp ở mỗi bệnh nhân thì không được biết.
Không được rút catheter ngoài màng cứng sớm hơn 18 tiếng đồng hồ kể từ lần cuối cùng dùng Rivaroxaban. Nên sử dụng liều Rivaroxaban tiếp theo sớm nhất là 6 giờ sau khi rút catheter.
Nếu xảy ra tổn thương do chọc dò, cần trì hoãn việc sử dụng Rivaroxaban tới 24 giờ sau.
Liều khuyến cáo trước và sau thủ thuật xâm lấn và can thiệp phẫu thuật:
Nếu cần phải có phẫu thuật hoặc thủ thuật xâm lấn, cần ngừng Rivaroxaban 15 mg trước can thiệp ít nhất 24 giờ, nếu có thể và dựa trên quyết định lâm sàng của bác sĩ.
Nếu không thể trì hoãn thủ thuật, cần đánh giá nguy cơ tăng chảy máu so với mức độ khẩn cấp của can thiệp.
Sau thủ thuật xâm lấn hoặc can thiệp phẫu thuật, cần tiếp tục dùng lại Rivaroxaban càng sớm càng tốt khi tình trạng lâm sàng cho phép và khi cầm máu được thiết lập theo quyết định của bác sĩ điều trị.
Người cao tuổi: Nguy cơ xuất huyết có thể tăng theo độ tuổi.
Thông tin về các tá dược:
Rivaroxaban chứa lactose. Những bệnh nhân có vấn đề về di truyền hiếm gặp không dung nạp galactose, thiếu hụt lactase Lapp hoặc kém hấp thu glucose-galactose không nên dùng thuốc này.
Tính an toàn và hiệu quả của Rivaroxaban đã được nghiên cứu kết hợp với các thuốc kháng tiểu cầu aspirin và clopidogrel hoặc ticlopidine. Điều trị kết hợp với thuốc kháng tiểu cầu khác, ví dụ Prasugrel hoặc Ticagrelor, chưa được nghiên cứu và không được khuyến cáo.
Giám sát lâm sàng phù hợp với thực hành các thuốc kháng đông được khuyến cáo trong suốt thời gian điều trị.
Nguy cơ chảy máu:
Cũng giống như các thuốc chống huyết khối khác, Rivaroxaban cần được sử dụng thận trọng ở bệnh nhân có các dấu hiệu chảy máu. Khuyến cáo sử dụng thận trọng nếu có tăng nguy cơ chảy máu. Nên ngưng dùng Rivaroxaban nếu xuất huyết nghiêm trọng xảy ra.
Trong các nghiên cứu lâm sàng về chảy máu niêm mạc (nghĩa là chảy máu cam, nướu, tiêu hóa, tiết niệu - sinh dục) và thiếu máu đã xuất hiện thường xuyên hơn trong khi điều trị Rivaroxaban lâu dài vào đầu liệu pháp kháng tiểu cầu đơn hoặc kép. Vì vậy, ngoài việc giám sát lâm sàng thích hợp, xét nghiệm hemoglobin/hematocrit có thể có giá trị phát hiện chảy máu ẩn, được đánh giá là phù hợp.
Một số phân nhóm bệnh nhân, như chi tiết dưới đây, có nhiều nguy cơ chảy máu. Do đó, việc sử dụng Rivaroxaban kết hợp với điều trị kháng tiểu cầu kép ở những bệnh nhân có nguy cơ chảy máu cao đã được biết đến nên được cân bằng với những lợi ích về mặt phòng ngừa các biến cố huyết khối do xơ vữa động mạch.
Ngoài những bệnh nhân phải được theo dõi cẩn thận các dấu hiệu và triệu chứng của biến chứng chảy máu và thiếu máu sau khi bắt đầu điều trị.
Bất kỳ một sự tụt giảm hemoglobin hay huyết áp nào không giải thích được cần nghĩ đến việc tìm kiếm vị trí chảy máu.
Mặc dù điều trị với Rivaroxaban không yêu cầu giám sát thường xuyên sự phơi nhiễm, mức Rivaroxaban được đo với một xét nghiệm hiệu chuẩn định lượng kháng yếu tố Xa có thể hữu ích trong các tình huống đặc biệt, khi kiến thức về phơi nhiễm Rivaroxaban có thể giúp ra các quyết định lâm sàng, ví dụ, quá liều và phẫu thuật khẩn cấp.
Bệnh nhân suy thận:
Ở bệnh nhân suy thận nặng (độ thanh thải creatinin < 30 mL/phút), nồng độ Rivaroxaban trong huyết tương có thể tăng lên đáng kể (trung bình gấp 1,6 lần), dẫn tới tăng nguy cơ chảy máu. Sử dụng Rivaroxaban thận trọng ở những bệnh nhân có độ thanh thải creatinin 15 - 20 mL/phút. Không khuyến cáo dùng cho những bệnh nhân có độ thanh thải creatinin <15 mL/phút.
Sử dụng Rivaroxaban thận trọng ở những bệnh nhân bị suy thận vừa (độ thanh thải creatinine 30 - 49 mL/phút) dùng đồng thời với các thuốc khác làm tăng nồng độ Rivaroxaban trong huyết tương.
Tương tác với các thuốc khác:
Không khuyến cáo sử dụng Rivaroxaban cho các bệnh nhân đang sử dụng thuốc chống nấm nhóm azole (như Ketoconazole, Itraconazole, Voriconazole và Posaconazole) hoặc các thuốc chống HIV ức chế protease (ví dụ Ritonavir). Các thuốc này ức chế mạnh cả CYP3A4 và P-gp. Vì vậy có thể làm tăng nồng độ Rivaroxaban trong huyết tương (trung bình cao gấp khoảng 2,6 lần) tới mức có thể gây tăng nguy cơ chảy máu trên lâm sàng.
Cần thận trọng ở bệnh nhân dùng đồng thời thuốc ảnh hưởng tới sự cầm máu như các thuốc chống viêm không steroid (NSAID), Acid acetylsalicylic (ASA) và thuốc chống kết tập tiểu cầu. Đối với những bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh loét đường tiêu hóa nên xem xét đến điều trị phòng ngừa thích hợp.
Các yếu tố nguy cơ chảy máu khác:
Cũng giống như các thuốc chống huyết khối khác, Rivaroxaban cần được sử dụng thận trọng ở bệnh nhân có tăng các nguy cơ chảy máu như:
+ Rối loạn chảy máu bẩm sinh hoặc mắc phải.
+ Tăng huyết áp động mạch nghiêm trọng không kiểm soát được.
+ Bệnh tiêu hóa khác mà không có loét tiến triển có khả năng dẫn đến biến chứng xuất huyết (ví dụ: Bệnh viêm đường ruột, viêm thực quản, viêm dạ dày và bệnh trào ngược dạ dày).
+ Bệnh mạch võng mạc do mạch máu.
+ Chứng giãn phế quản hoặc tiền sử xuất huyết phổi.
Phẫu thuật gãy xương khớp háng:
Rivaroxaban chưa được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng can thiệp ở bệnh nhân trải qua phẫu thuật gãy xương khớp háng để đánh giá tính an toàn và hiệu quả.
Bệnh nhân có van tim giả:
Tính an toàn và hiệu quả của Rivaroxaban chưa được nghiên cứu ở bệnh nhân có van tim giả; do đó, không có dữ liệu để chứng minh rằng Rivaroxaban 20 mg (15 mg ở bệnh nhân suy thận trung bình hoặc nặng) cung cấp thuốc kháng đông thỏa đáng trong nhóm bệnh nhân này. Không khuyến cáo điều trị bằng Rivaroxaban cho những bệnh nhân này.
Bệnh nhân PE không ổn định về huyết động lực hoặc bệnh nhân cần làm tan huyết khối hoặc thủ thuật cắt bỏ vật nghẽn mạch phổi:
Rivaroxaban không được khuyến cáo như là một sự thay thế cho heparin không phân đoạn ở bệnh nhân tắc mạch phổi không ổn định về huyết động lực hoặc có thể được làm tan huyết khối hoặc làm thủ thuật cắt bỏ vật nghẽn mạch phổi vì tính an toàn và hiệu quả của Rivaroxaban chưa được thiết lập trong các tình huống lâm sàng.
Gây mê ngoài màng cứng/ tủy sống hoặc chọc dò tủy sống:
Khi tiến hành gây mê trục thần kinh não tủy (ngoài màng cứng/tủy sống) hoặc chọc dò tủy sống ở bệnh nhân có sử dụng thuốc chống huyết khối để dự phòng biến chứng thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch sẽ có nguy cơ bị khối máu tụ ở tủy sống hoặc ngoài màng cứng dẫn tới chứng liệt kéo dài.
Nguy cơ của các biến chứng này thậm chí còn tăng lên khi đặt catheter ngoài màng cứng hoặc sử dụng đồng thời với các thuốc có ảnh hưởng tới sự cầm máu. Nguy cơ cũng tăng lên khi bị chấn thương hoặc chọc dò lặp lại tủy sống/ngoài màng cứng.
Cần thường xuyên theo dõi ở bệnh nhân những dấu hiệu và triệu chứng suy giảm thần kinh (ví dụ như tê hoặc yếu chân, rối loạn chức năng bàng quang và đại tràng). Nếu phát hiện có suy giảm thần kinh, cần chẩn đoán và điều trị kịp thời ngay cho bệnh nhân.
Bác sĩ cần cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ trước khi can thiệp vào trục thần kinh não tủy ở bệnh nhân có dùng thuốc chống đông hoặc phải dùng thuốc chống đông để ngăn ngừa huyết khối.
Để giảm nguy cơ tiềm ẩn của chảy máu kết hợp với việc sử dụng đồng thời của Rivaroxaban và gây mê trục thần kinh não tủy (ngoài màng cứng/tủy sống) hoặc chọc dò tủy sống, hãy xem xét hồ sơ dược động học của Rivaroxaban.
Đặt hoặc rút catheter ngoài màng cứng hoặc chọc dò tủy sống được thực hiện tốt nhất khi tác dụng kháng đông của Rivaroxaban được ước tính là thấp. Tuy nhiên, thời gian chính xác để đạt được một tác dụng kháng đông đủ thấp ở mỗi bệnh nhân thì không được biết.
Không được rút catheter ngoài màng cứng sớm hơn 18 tiếng đồng hồ kể từ lần cuối cùng dùng Rivaroxaban. Nên sử dụng liều Rivaroxaban tiếp theo sớm nhất là 6 giờ sau khi rút catheter.
Nếu xảy ra tổn thương do chọc dò, cần trì hoãn việc sử dụng Rivaroxaban tới 24 giờ sau.
Liều khuyến cáo trước và sau thủ thuật xâm lấn và can thiệp phẫu thuật:
Nếu cần phải có phẫu thuật hoặc thủ thuật xâm lấn, cần ngừng Rivaroxaban 15 mg trước can thiệp ít nhất 24 giờ, nếu có thể và dựa trên quyết định lâm sàng của bác sĩ.
Nếu không thể trì hoãn thủ thuật, cần đánh giá nguy cơ tăng chảy máu so với mức độ khẩn cấp của can thiệp.
Sau thủ thuật xâm lấn hoặc can thiệp phẫu thuật, cần tiếp tục dùng lại Rivaroxaban càng sớm càng tốt khi tình trạng lâm sàng cho phép và khi cầm máu được thiết lập theo quyết định của bác sĩ điều trị.
Người cao tuổi: Nguy cơ xuất huyết có thể tăng theo độ tuổi.
Thông tin về các tá dược:
Rivaroxaban chứa lactose. Những bệnh nhân có vấn đề về di truyền hiếm gặp không dung nạp galactose, thiếu hụt lactase Lapp hoặc kém hấp thu glucose-galactose không nên dùng thuốc này.
6. Sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai và cho con bú
Chống chỉ định Rivaxored cho phụ nữ có thai và cho con bú.
7. Khả năng lái xe và vận hành máy móc
Rivaroxaban có ảnh hưởng nhỏ đến khả năng lái xe và vận hành máy móc. Các phản ứng bất lợi như ngất (tần xuất: Không phổ biến) và chóng mặt (tần xuất: Thường gặp) đã được báo cáo.
Bệnh nhân gặp những tác dụng ngoại ý này không nên lái xe hoặc điều khiển máy móc.
Bệnh nhân gặp những tác dụng ngoại ý này không nên lái xe hoặc điều khiển máy móc.
8. Tác dụng không mong muốn
Khi sử dụng thuốc Rivaxored, bạn có thể gặp các tác dụng không mong muốn (ADRs).
Các tần suất của ADRs báo cáo với Rivaroxaban dưới đây theo phân loại hệ thống cơ quan (MedDRA) và theo tần suất.
Tần suất được xác định như sau: Rất phổ biến (≥ 1/10), phổ biến (≥ 1/100 đến < 1/10), không phổ biến (≥ 1/1.000 đến < 1/100), hiếm gặp (≥ 1/10.000 đến < 1/1.000), chưa biết (không thể ước tính được từ dữ liệu có sẵn).
Rối loạn hệ thống máu và bạch huyết:
Phổ biến: Thiếu máu (bao gồm cả các thông số xét nghiệm tương ứng).
Không phổ biến: Tăng tiểu cầu (bao gồm tăng số tiểu cầu).
Rối loạn hệ thống miễn dịch:
Không phổ biến: Phản ứng dị ứng, viêm da dị ứng.
Rối loạn hệ thần kinh:
Phổ biến: Chóng mặt, nhức đầu.
Không phổ biến: Xuất huyết não và nội sọ, ngất.
Rối loạn mắt:
Phổ biến: Xuất huyết mắt (bao gồm xuất huyết kết mạc).
Rối loạn tim:
Không phổ biến: Nhịp tim nhanh.
Rối loạn mạch:
Phổ biến: Hạ huyết áp, tụ máu.
Rối loạn hô hấp, lồng ngực và trung thất:
Phổ biến: Chảy máu cam, ho ra máu.
Rối loạn tiêu hóa:
Phổ biến: Chảy máu nướu răng, xuất huyết đường tiêu hóa (bao gồm xuất huyết trực tràng), đau bụng và dạ dày ruột, khó tiêu, buồn nôn, táo bón, tiêu chảy, nôn mửa.
Không phổ biến: Khô miệng.
Rối loạn gan – mật:
Không phổ biến: Chức năng gan bất thường.
Hiếm gặp: Vàng da.
Rối loạn da và mô dưới da:
Phổ biến: Ngứa (bao gồm cả trường hợp không phổ biến của bệnh ngứa toàn thân), phát ban, bầm xuất huyết dưới da, xuất huyết ở da và dưới da.
Không phổ biến: Mày đay.
Rối loạn cơ xương khớp và mô liên kết:
Phổ biến: Đau ở đầu chi.
Không phổ biến: Chảy máu trong khớp
Hiếm gặp: Chảy máu cơ.
Chưa biết: Hội chứng khoang thứ phát sau xuất huyết.
Rối loạn thận và tiết niệu:
Phổ biến: Xuất huyết đường tiết niệu sinh dục (bao gồm cả tiểu máu và rong kinh), suy thận (bao gồm tăng creatinine máu, tăng ure máu).
Chưa biết: Suy thận/suy thận cấp thứ phát sau chảy máu nghiêm trọng do giảm tưới máu.
Rối loạn chung và bệnh tại chỗ uống thuốc:
Phổ biến: Sốt, phù ngoại vi, giảm sức lực và năng lượng (bao gồm cả mệt mỏi và suy nhược).
Hiếm gặp: Phù cục bộ.
Không phổ biến: Cảm thấy không khỏe (bao gồm khó chịu).
Các xét nghiệm:
Phổ biến: Tăng transaminase.
Không phổ biến: Tăng bilirubin, tăng phosphatase kiềm trong máu, tăng LDH, tăng lipase, tăng amylase, tăng GGT.
Hiếm gặp: Bilirubin liên hợp tăng (có hoặc không có sự gia tăng đồng thời của ALT).
Thương tích, ngộ độc và các biến chứng sau thủ thuật:
Phổ biến: Xuất huyết sau thủ thuật (bao gồm thiếu máu sau phẫu thuật và xuất huyết vết thương) đụng dập, dịch tiết ra từ vết thương.
Hiếm gặp: Giả phình mạch.
Khi gặp tác dụng phụ của thuốc, bệnh nhân cần ngưng sử dụng và thông báo cho bác sĩ hoặc đến cơ sở y tế gần nhất để được xử trí kịp thời.
Các tần suất của ADRs báo cáo với Rivaroxaban dưới đây theo phân loại hệ thống cơ quan (MedDRA) và theo tần suất.
Tần suất được xác định như sau: Rất phổ biến (≥ 1/10), phổ biến (≥ 1/100 đến < 1/10), không phổ biến (≥ 1/1.000 đến < 1/100), hiếm gặp (≥ 1/10.000 đến < 1/1.000), chưa biết (không thể ước tính được từ dữ liệu có sẵn).
Rối loạn hệ thống máu và bạch huyết:
Phổ biến: Thiếu máu (bao gồm cả các thông số xét nghiệm tương ứng).
Không phổ biến: Tăng tiểu cầu (bao gồm tăng số tiểu cầu).
Rối loạn hệ thống miễn dịch:
Không phổ biến: Phản ứng dị ứng, viêm da dị ứng.
Rối loạn hệ thần kinh:
Phổ biến: Chóng mặt, nhức đầu.
Không phổ biến: Xuất huyết não và nội sọ, ngất.
Rối loạn mắt:
Phổ biến: Xuất huyết mắt (bao gồm xuất huyết kết mạc).
Rối loạn tim:
Không phổ biến: Nhịp tim nhanh.
Rối loạn mạch:
Phổ biến: Hạ huyết áp, tụ máu.
Rối loạn hô hấp, lồng ngực và trung thất:
Phổ biến: Chảy máu cam, ho ra máu.
Rối loạn tiêu hóa:
Phổ biến: Chảy máu nướu răng, xuất huyết đường tiêu hóa (bao gồm xuất huyết trực tràng), đau bụng và dạ dày ruột, khó tiêu, buồn nôn, táo bón, tiêu chảy, nôn mửa.
Không phổ biến: Khô miệng.
Rối loạn gan – mật:
Không phổ biến: Chức năng gan bất thường.
Hiếm gặp: Vàng da.
Rối loạn da và mô dưới da:
Phổ biến: Ngứa (bao gồm cả trường hợp không phổ biến của bệnh ngứa toàn thân), phát ban, bầm xuất huyết dưới da, xuất huyết ở da và dưới da.
Không phổ biến: Mày đay.
Rối loạn cơ xương khớp và mô liên kết:
Phổ biến: Đau ở đầu chi.
Không phổ biến: Chảy máu trong khớp
Hiếm gặp: Chảy máu cơ.
Chưa biết: Hội chứng khoang thứ phát sau xuất huyết.
Rối loạn thận và tiết niệu:
Phổ biến: Xuất huyết đường tiết niệu sinh dục (bao gồm cả tiểu máu và rong kinh), suy thận (bao gồm tăng creatinine máu, tăng ure máu).
Chưa biết: Suy thận/suy thận cấp thứ phát sau chảy máu nghiêm trọng do giảm tưới máu.
Rối loạn chung và bệnh tại chỗ uống thuốc:
Phổ biến: Sốt, phù ngoại vi, giảm sức lực và năng lượng (bao gồm cả mệt mỏi và suy nhược).
Hiếm gặp: Phù cục bộ.
Không phổ biến: Cảm thấy không khỏe (bao gồm khó chịu).
Các xét nghiệm:
Phổ biến: Tăng transaminase.
Không phổ biến: Tăng bilirubin, tăng phosphatase kiềm trong máu, tăng LDH, tăng lipase, tăng amylase, tăng GGT.
Hiếm gặp: Bilirubin liên hợp tăng (có hoặc không có sự gia tăng đồng thời của ALT).
Thương tích, ngộ độc và các biến chứng sau thủ thuật:
Phổ biến: Xuất huyết sau thủ thuật (bao gồm thiếu máu sau phẫu thuật và xuất huyết vết thương) đụng dập, dịch tiết ra từ vết thương.
Hiếm gặp: Giả phình mạch.
Khi gặp tác dụng phụ của thuốc, bệnh nhân cần ngưng sử dụng và thông báo cho bác sĩ hoặc đến cơ sở y tế gần nhất để được xử trí kịp thời.
9. Tương tác với các thuốc khác
Tương tác thuốc có thể ảnh hưởng đến hoạt động của thuốc hoặc gây ra các tác dụng phụ. Nên báo cho bác sĩ hoặc dược sĩ danh sách những thuốc và các thực phẩm chức năng bạn đang sử dụng. Không nên dùng hay tăng giảm liều lượng của thuốc mà không có sự hướng dẫn của bác sĩ.
Các chất ức chế CYP3A4 và P-gp:
Dùng đồng thời Rivaroxaban với Ketoconazol (400 mg mỗi ngày một lần) hoặc Ritonavir (600 mg hai lần một ngày) làm AUC trung bình của Rivaroxaban tăng lên 2,5 lần/2,6 lần và Cmax trung bình của Rivaroxaban tăng lên 1,6 lần/1,7 lần, đồng thời tác dụng dược lực cũng tăng lên đáng kể có thể dẫn đến nguy cơ chảy máu tăng lên.
Do đó, không khuyến cáo sử dụng Rivaroxaban cho những bệnh nhân đang đồng thời sử dụng theo đường toàn thân azole-antimycotics như Ketoconazole, Itraconazole, Voriconazole và Posaconazole hoặc chất ức chế protease HIV. Những hoạt chất này là chất ức chế mạnh cả CYP3A4 và P-gp.
Các chất chỉ ức chế mạnh một trong các đường thải trừ Rivaroxaban, hoặc là CYP3A4 hoặc là P-gp, sẽ làm tăng nồng độ Rivaroxaban trong huyết tương đến một mức độ ít hơn. Clarithromycin (500 mg hai lần một ngày), ví dụ cũng được coi là một chất ức chế mạnh CYP3A4 và ức chế P-gp ở mức trung bình, làm tăng AUC trung bình của Rivaroxaban lên 1,5 lần và Cmax tăng 1,4 lần. Sự tăng này không được cho là có ý nghĩa lâm sàng.
Erythromycin (500 mg, 3 lần/ngày), ức chế CYP 3A4 và P-gp ở mức độ trung bình, làm tăng giá trị trung bình của AUC và Cmax của Rivaroxaban lên 1,3 lần. Sự tăng này không được cho là có ý nghĩa lâm sàng.
Trên những đối tượng bệnh nhân suy thận nhẹ, erythromycin (500 mg, 3 lần/ngày) làm tăng 1,8 lần giá trị trung bình AUC của Rivaroxaban và 1,6 lần Cmax khi so sánh với đối tượng bệnh nhân có chức năng thận bình thường. Trên những đối tượng bệnh nhân suy thận trung bình, erythromycin làm tăng 2 lần giá trị trung bình AUC và 1,6 lần Cmax khi so sánh với đối tượng bệnh nhân có chức năng thận bình thường.
Tác dụng của erythromycin bị cộng thêm vào tác động của suy thận.
Fluconazole (400 mg mỗi ngày một lần), được coi như chất ức chế CYP3A4 vừa phải, làm tăng gấp 1,4 lần AUC trung bình và tăng 1,3 lần Cmax trung bình của Rivaroxaban. Sự tăng này không được cho là có ý nghĩa lâm sàng.
Với các dữ liệu lâm sàng còn hạn chế với dronedaron, nên tránh dùng đồng thời với Rivaroxaban.
Nhóm thuốc kháng đông:
Khi dùng phối hợp Enoxaparin (40 mg một liều duy nhất) với Rivaroxaban (10 mg một liều duy nhất), đã nhận thấy có tác dụng cộng thêm trên hoạt tính kháng yếu tố Xa nhưng lại không có tác dụng cộng thêm nào trên các xét nghiệm đông máu (PT, aPTT). Enoxaparin không ảnh hưởng tới dược động học của Rivaroxaban.
Do nguy cơ chảy máu tăng lên, cần giám sát chặt chẽ nếu bệnh nhân được điều trị đồng thời với bất kỳ thuốc chống đông máu khác.
NSAIDs/Thuốc ức chế kết tập tiểu cầu:
Không kéo dài thời gian chảy máu liên quan lâm sàng sau khi dùng đồng thời Rivaroxaban (15 mg) và 500 mg Naproxen. Tuy nhiên, có thể có những cá thể bệnh nhân có đáp ứng dược lực học mạnh mẽ hơn thế.
Không quan sát thấy tương tác dược động học hay dược lực học nào có ý nghĩa trên lâm sàng khi sử dụng phối hợp Rivaroxaban với 500 mg Acid acetylsalicylic.
Clopidogrel (liều khởi đầu 300 mg, sau đó duy trì với liều 75 mg) không gây ra tương tác dược động học với Rivaroxaban (15 mg). Tuy nhiên, trên một phân nhóm bệnh nhân có thấy tăng thời gian chảy máu không tương quan đến kết tập tiểu cầu, nồng độ P-selectin hay các mức độ thụ thể GPIIb/IIIa.
Cần giám sát chặt chẽ nếu bệnh nhân được điều trị đồng thời bằng NSAIDS (bao gồm Acid acetylsalicylic) và thuốc ức chế kết tập tiểu cầu bởi vì đây là những thuốc điển hình làm tăng nguy cơ chảy máu.
Warfarin:
Việc chuyển các bệnh nhân từ sử dụng Warfarin kháng vitamin K (INR 2,0-3,0) sang Rivaroxaban (20 mg) hoặc từ Rivaroxaban (20 mg) sang Warfarin (INR 2,0-3,0) làm tăng thời gian prothrombin/INR (Neoplastin) nhiều hơn là cộng thêm vào (các giá trị INR đơn lẻ được phát hiện lên đến 12), trong khi đối với những tác động lên aPTT, thì sự ức chế hoạt tính của yếu tố Xa và tiềm năng thrombin nội sinh là cộng thêm vào.
Nếu muốn kiểm tra các tác dụng dược lực của Rivaroxaban trong giai đoạn chuyển đổi, thì hoạt tính chống Yếu tố Xa, PiCT, và HepTest có thể được sử dụng vì những thử nghiệm này không bị ảnh hưởng bởi Warfarin. Từ ngày thứ 4 sau khi dừng Warfarin trở đi, tất cả các xét nghiệm (bao gồm cả PT, aPTT, ức chế hoạt tính của Yếu tố Xa và ETP) chỉ phản ánh ảnh hưởng của Rivaroxaban.
Nếu muốn kiểm tra các tác dụng dược lực của Warfarin trong thời kỳ chuyển đổi, việc đo lường INR có thể được sử dụng tại nồng độ Ctrough của Rivaroxaban (24 giờ sau khi uống liều Rivaroxaban trước đó) vì thử nghiệm này rất ít bị ảnh hưởng bởi Rivaroxaban tại thời điểm này.
Không có tương tác dược động học nào được phát hiện giữa Warfarin và Rivaroxaban.
Các chất gây cảm ứng CYP3A4:
Dùng đồng thời Rivaroxaban với Rifampicin là thuốc gây cảm ứng CYP3A4 mạnh dẫn đến giảm gần 50% AUC trung bình của Rivaroxaban, đồng thời làm giảm tác dụng dược lực của nó.
Việc sử dụng đồng thời Rivaroxaban với các thuốc gây cảm ứng CYP3A4 mạnh khác (ví dụ: Phenytoin, carbamazepine, phenobarbital hoặc cỏ St. John's (Hypericum perforatum) cũng có thể dẫn đến nồng độ trong huyết tương của Rivaroxaban giảm. Do đó, nên tránh dùng đồng thời thuốc gây cảm ứng CYP3A4 mạnh trừ khi bệnh nhân được theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu và triệu chứng của huyết khối.
Phương pháp điều trị đồng thời khác:
Không quan sát thấy tương tác dược động học hay dược lực học nào có ý nghĩa đáng kể trên lâm sàng khi sử dụng phối hợp Rivaroxaban với Midazolam (cơ chất của CYP3A4), digoxin (cơ chất của P-gp), Atorvastatin (cơ chất của CYP3A4 và P-gp) hoặc Omeprazole (thuốc ức chế bơm proton).
Rivaroxaban không ức chế cũng không tạo ra bất kỳ đồng phân CYP lớn nào như CYP3A4.
Không quan sát thấy tương tác với thức ăn liên quan đến lâm sàng.
Tương tác với các thông số xét nghiệm:
Các xét nghiệm đo lường thông số đông máu (PT, aPTT, Hep Test) được cho là sẽ bị ảnh hưởng bởi cơ chế tác dụng của Rivaroxaban.
Các chất ức chế CYP3A4 và P-gp:
Dùng đồng thời Rivaroxaban với Ketoconazol (400 mg mỗi ngày một lần) hoặc Ritonavir (600 mg hai lần một ngày) làm AUC trung bình của Rivaroxaban tăng lên 2,5 lần/2,6 lần và Cmax trung bình của Rivaroxaban tăng lên 1,6 lần/1,7 lần, đồng thời tác dụng dược lực cũng tăng lên đáng kể có thể dẫn đến nguy cơ chảy máu tăng lên.
Do đó, không khuyến cáo sử dụng Rivaroxaban cho những bệnh nhân đang đồng thời sử dụng theo đường toàn thân azole-antimycotics như Ketoconazole, Itraconazole, Voriconazole và Posaconazole hoặc chất ức chế protease HIV. Những hoạt chất này là chất ức chế mạnh cả CYP3A4 và P-gp.
Các chất chỉ ức chế mạnh một trong các đường thải trừ Rivaroxaban, hoặc là CYP3A4 hoặc là P-gp, sẽ làm tăng nồng độ Rivaroxaban trong huyết tương đến một mức độ ít hơn. Clarithromycin (500 mg hai lần một ngày), ví dụ cũng được coi là một chất ức chế mạnh CYP3A4 và ức chế P-gp ở mức trung bình, làm tăng AUC trung bình của Rivaroxaban lên 1,5 lần và Cmax tăng 1,4 lần. Sự tăng này không được cho là có ý nghĩa lâm sàng.
Erythromycin (500 mg, 3 lần/ngày), ức chế CYP 3A4 và P-gp ở mức độ trung bình, làm tăng giá trị trung bình của AUC và Cmax của Rivaroxaban lên 1,3 lần. Sự tăng này không được cho là có ý nghĩa lâm sàng.
Trên những đối tượng bệnh nhân suy thận nhẹ, erythromycin (500 mg, 3 lần/ngày) làm tăng 1,8 lần giá trị trung bình AUC của Rivaroxaban và 1,6 lần Cmax khi so sánh với đối tượng bệnh nhân có chức năng thận bình thường. Trên những đối tượng bệnh nhân suy thận trung bình, erythromycin làm tăng 2 lần giá trị trung bình AUC và 1,6 lần Cmax khi so sánh với đối tượng bệnh nhân có chức năng thận bình thường.
Tác dụng của erythromycin bị cộng thêm vào tác động của suy thận.
Fluconazole (400 mg mỗi ngày một lần), được coi như chất ức chế CYP3A4 vừa phải, làm tăng gấp 1,4 lần AUC trung bình và tăng 1,3 lần Cmax trung bình của Rivaroxaban. Sự tăng này không được cho là có ý nghĩa lâm sàng.
Với các dữ liệu lâm sàng còn hạn chế với dronedaron, nên tránh dùng đồng thời với Rivaroxaban.
Nhóm thuốc kháng đông:
Khi dùng phối hợp Enoxaparin (40 mg một liều duy nhất) với Rivaroxaban (10 mg một liều duy nhất), đã nhận thấy có tác dụng cộng thêm trên hoạt tính kháng yếu tố Xa nhưng lại không có tác dụng cộng thêm nào trên các xét nghiệm đông máu (PT, aPTT). Enoxaparin không ảnh hưởng tới dược động học của Rivaroxaban.
Do nguy cơ chảy máu tăng lên, cần giám sát chặt chẽ nếu bệnh nhân được điều trị đồng thời với bất kỳ thuốc chống đông máu khác.
NSAIDs/Thuốc ức chế kết tập tiểu cầu:
Không kéo dài thời gian chảy máu liên quan lâm sàng sau khi dùng đồng thời Rivaroxaban (15 mg) và 500 mg Naproxen. Tuy nhiên, có thể có những cá thể bệnh nhân có đáp ứng dược lực học mạnh mẽ hơn thế.
Không quan sát thấy tương tác dược động học hay dược lực học nào có ý nghĩa trên lâm sàng khi sử dụng phối hợp Rivaroxaban với 500 mg Acid acetylsalicylic.
Clopidogrel (liều khởi đầu 300 mg, sau đó duy trì với liều 75 mg) không gây ra tương tác dược động học với Rivaroxaban (15 mg). Tuy nhiên, trên một phân nhóm bệnh nhân có thấy tăng thời gian chảy máu không tương quan đến kết tập tiểu cầu, nồng độ P-selectin hay các mức độ thụ thể GPIIb/IIIa.
Cần giám sát chặt chẽ nếu bệnh nhân được điều trị đồng thời bằng NSAIDS (bao gồm Acid acetylsalicylic) và thuốc ức chế kết tập tiểu cầu bởi vì đây là những thuốc điển hình làm tăng nguy cơ chảy máu.
Warfarin:
Việc chuyển các bệnh nhân từ sử dụng Warfarin kháng vitamin K (INR 2,0-3,0) sang Rivaroxaban (20 mg) hoặc từ Rivaroxaban (20 mg) sang Warfarin (INR 2,0-3,0) làm tăng thời gian prothrombin/INR (Neoplastin) nhiều hơn là cộng thêm vào (các giá trị INR đơn lẻ được phát hiện lên đến 12), trong khi đối với những tác động lên aPTT, thì sự ức chế hoạt tính của yếu tố Xa và tiềm năng thrombin nội sinh là cộng thêm vào.
Nếu muốn kiểm tra các tác dụng dược lực của Rivaroxaban trong giai đoạn chuyển đổi, thì hoạt tính chống Yếu tố Xa, PiCT, và HepTest có thể được sử dụng vì những thử nghiệm này không bị ảnh hưởng bởi Warfarin. Từ ngày thứ 4 sau khi dừng Warfarin trở đi, tất cả các xét nghiệm (bao gồm cả PT, aPTT, ức chế hoạt tính của Yếu tố Xa và ETP) chỉ phản ánh ảnh hưởng của Rivaroxaban.
Nếu muốn kiểm tra các tác dụng dược lực của Warfarin trong thời kỳ chuyển đổi, việc đo lường INR có thể được sử dụng tại nồng độ Ctrough của Rivaroxaban (24 giờ sau khi uống liều Rivaroxaban trước đó) vì thử nghiệm này rất ít bị ảnh hưởng bởi Rivaroxaban tại thời điểm này.
Không có tương tác dược động học nào được phát hiện giữa Warfarin và Rivaroxaban.
Các chất gây cảm ứng CYP3A4:
Dùng đồng thời Rivaroxaban với Rifampicin là thuốc gây cảm ứng CYP3A4 mạnh dẫn đến giảm gần 50% AUC trung bình của Rivaroxaban, đồng thời làm giảm tác dụng dược lực của nó.
Việc sử dụng đồng thời Rivaroxaban với các thuốc gây cảm ứng CYP3A4 mạnh khác (ví dụ: Phenytoin, carbamazepine, phenobarbital hoặc cỏ St. John's (Hypericum perforatum) cũng có thể dẫn đến nồng độ trong huyết tương của Rivaroxaban giảm. Do đó, nên tránh dùng đồng thời thuốc gây cảm ứng CYP3A4 mạnh trừ khi bệnh nhân được theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu và triệu chứng của huyết khối.
Phương pháp điều trị đồng thời khác:
Không quan sát thấy tương tác dược động học hay dược lực học nào có ý nghĩa đáng kể trên lâm sàng khi sử dụng phối hợp Rivaroxaban với Midazolam (cơ chất của CYP3A4), digoxin (cơ chất của P-gp), Atorvastatin (cơ chất của CYP3A4 và P-gp) hoặc Omeprazole (thuốc ức chế bơm proton).
Rivaroxaban không ức chế cũng không tạo ra bất kỳ đồng phân CYP lớn nào như CYP3A4.
Không quan sát thấy tương tác với thức ăn liên quan đến lâm sàng.
Tương tác với các thông số xét nghiệm:
Các xét nghiệm đo lường thông số đông máu (PT, aPTT, Hep Test) được cho là sẽ bị ảnh hưởng bởi cơ chế tác dụng của Rivaroxaban.
10. Dược lý
Chưa có thông tin được báo cáo.
11. Quá liều và xử trí quá liều
Trong trường hợp khẩn cấp, hãy gọi ngay cho Trung tâm cấp cứu 115 hoặc đến trạm Y tế địa phương gần nhất.
12. Bảo quản
Để nơi mát, tránh ánh sáng, nhiệt độ dưới 30⁰C.
Để xa tầm tay trẻ em.
Để xa tầm tay trẻ em.